Bản án 168/2019/HSST ngày 20/11/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 168/2019/HSST NGÀY 20/11/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 11 năm 2018 tại Phòng xử án Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 168/2019/TLST-HS ngày 03 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 282/2019/QĐXXST-HS ngày 29tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phan M T Giới tính: Nam Sinh ngày 25/8/2001 Nơi sinh: TP.Hồ Chí Minh Nơi đăng ký HKTT: 333 Đinh B L, phường x, quận Bình T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Chỗ ở: 421 K V Cân, phường x, quận Bình T, TP.Hồ Chí Minh Quốc tịch: Việt Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Trình độ học vấn: 6/12 Nghề nghiệp: Sửa xe Họ và tên cha: Phan Hữu T, sinh năm 1968 Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1968 Hoàn cảnh gia đình: Chưa có vợ con Gia đình có 05 anh, chị em, bị can là người 04 trong gia đình.

Tiền án, tiền sự: không có Tạm giam từ ngày 07/7/2019

Những người tham gia tố tụng:

Người bị hại: 1. Bà Hồ Thị T T Địa chỉ: 146/59/18/52 Vũ Tùng, phường X, quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Võ Văn T Địa chỉ: 350/7J Tùng Thiện Vương, phường X, quận Y, TP.Hồ Chí Minh

2. Bà Nguyễn Thị Thu H Địa chỉ: 79/18D Xô Viết Nghệ Tĩnh, phường X, quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh

Người đại diện hợp pháp cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Thu H (mẹ ruột) Địa chỉ: 93/3 Phạm Viết Chánh, phường 19, quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh Luật sư bào chữa chỉ định cho bị cáo: Luật sư Hoàng Xuân Đoàn – Công ty TNHH Hoàng Xuân Đoàn – Thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.

(Bị cáo; đại diện hợp pháp và Luật sư bào chữa chỉ định cho bị cáo có mặt tại phiên tòa; người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 06 giờ ngày 07/7/2019, Phan M T, sinh ngày 25/8/2001, điều khiển xe mô tô Exciter biển số 59M1-069.00 từ trong hẻm số 146 ra đường Vũ Tùng, Phường 2, quận Bình Thạnh thì phát hiện chị Hồ Thị T T, sinh năm 1993, đi bộ từ đường Vũ Tùng vào trong hẻm đang dùng điện thoại di động nên đã điều khiển xe áp sát chị T tại phía trước nhà số 146/19 Vũ Tùng, dùng tay trái cướp giật điện thoại di động của chị T nhưng không chụp trúng điện thoại mà chụp vào tay của chị T rồi mất lái, tự ngã xe cách đó khoảng 2m. Chị T đuổi theo tri hô, túm được vào quần của Tiến giữ lại và đã được mọi người xung quanh và Công an Đội trinh sát hình sự đặc nhiệm quận Bình Thạnh bắt quả tang.

Tại Cơ quan điều tra, Phan M T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với các chứng cứ khách quan khác gồm biên bản bắt người phạm tội quả tang, sơ đồ hiện trường, biên khai ghi nhận dấu vết trên thân thể; khai báo của người bị hại, nhân chứng; vật chứng gồm xe mô tô, điện thoại di động.

Theo Bản kết luận định giá tài sản số 261/KLĐGTS-TCKH ngày 17/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Bình Thạnh thì điện thoại di động bị chiếm đoạt có giá trị thành tiền là 22.000.000 đồng.

Vật chứng:

- 01 điện thoại di động ghi hiệu Iphone XS max 256G màu đen là tài sản hợp pháp của người bị hại, Cơ quan điều tra đã trả cho bị hại theo quy định;

- 01 xe mô tô hiệu Exciter biển số 59M1 – 069.00 là pH tiện bị can sử dụng để cướp giật tài sản, do Phan Thành PH, sinh năm 1996, ngụ tại 130/44/16 Phú Định, Phường 16, Quận 8 đứng tên chủ sở hữu. PH đã bán xe cho Võ Văn T, sinh năm 1988, ngụ tại 24/2/24 lầu 2 Chung cư Phan Văn Khỏe, Phường 5, Quận 6 năm 2018 nhưng chưa làm thủ tục sang tên. T để xe tại tiệm của Phan M T để sửa, không biết việc Tiến dùng xe của mình đi cướp giật tài sản. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Bình Thạnh đã tiến hành trả xe cho Võ Văn T theo quy định;

- 01 điện thoại di động Iphone XS max màu vàng thu giữ của Tiến, Cơ quan điều tra xác định là điện thoại Tiến mượn của mẹ tên Nguyễn Thị Thu H nên trả cho bà H theo quy định;

Phần dân sự: Bị hại bà Hồ Thị T T đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì khác.

Tại bản cáo trạng số 171/CT-VKSBTH ngày 30 tháng 9 năm 2019 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh đã truy tố bị cáo Phan M T về tội “Cướp giật tài sản” thuộc trường hợp “dùng thủ đoạn nguy hiểm”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phan M T đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình giống như lời khai tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đồng thời bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh đã truy tố. Bị cáo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt khi được nói lời nói sau cùng.

Bị hại Hồ Thị T T và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Qua nghiên cứu hồ sơ thể hiện người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường về trách nhiệm dân sự nào khác, do đó việc vắng mặt người bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không làm ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án, nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt theo quy định.

Luật sư bào chữa chỉ định cho bị cáo đã trình bày lời bào chữa của mình như sau: Luật sư thống nhất với tội danh, điều luật truy tố cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh áp dụng đối với bị cáo. Tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét thêm những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi lượng hình đối với bị cáo như sau:

Bị cáo Phan M T thực hiện hành vi phạm tội do nhất thời này sinh long tham khi thấy bị hại để tài sản sơ hở, mục đích cướp giật của bị cáo xuất phát từ việc bị cáo mâu thuẫn với người yêu nên nảy sinh bực tức, cướp giật để lấy điện thoại sử dụng chứ không bán tiêu sài cá nhân bị cáo; bị cáo thực hiện hành vi cướp giật tài sản mang tính giản đơn, khi bị cáo thực hiện hành vi cướp giật điện thoại nhưng không trúng mà chụp vào tay của chị T từ đó làm bị cáo mất lái và tự ngã xe ra đường. Về nhân thân của bị cáo, bị cáo sinh ra và lớn lên trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo có trình độ học vấn thấp, khi thực hiện hành phạm tội bị cáo chưa đủ tuổi vị thành niên, do đó khả năng nhận thức về pháp luật còn hạn chế và kém. Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải về việc làm của mình, khi cướp giật bị cáo chưa chiếm đoạt được tài sản của bị hại, nên chưa có thiệt hại về tài sản; bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm về trách nhiệm dân sự. Về nhân thân bị cáo là tốt, chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu, hiện nay bị cáo học nghề sửa xe gắn máy có việc làm ổn định. Từ những tình tiết nêu trên Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử áp khoản 2 Điều 171; Điều 12; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 90; 91 và 101 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Luật trẻ em số 102/2016/QH13 xem xét áp dụng cho bị cáo mức án thấp nhất cho bị cáo, để bị cáo có cơ hội làm lại cuộc đời, vì hình hình phạt áp dụng đối với trẻ dưới vị tuổi thành niên khi phạm tội chỉ mang tính chất giáo dục là chính.

Tại phiên tòa đại diện hợp pháp cho bị cáo bà Nguyễn Thị Thu H và bị cáo Phan M T đồng ý lời bào chữa của Luật sư bào chữa chỉ định cho bị cáo tại phiên tòa và không tham gia tranh luận gì thêm.

Đại diện viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh thực hành quyền công tố trình bày quan điểm của Viện kiểm sát đối với vụ án, sau khi phân tích tính chất hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đã giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; Điều 38; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 90, 91 và Điều 101 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Phan M T mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù. Về vật đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Bình Thạnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Thạnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Phan M T khai nhận đã thực hiện các hành vi như Cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng, biên bản hỏi cung bị can, biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[3] Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 06 giờ 00 phút ngày 07/7/2019 Phan M T điều khiển xe gắn máy biển số: Exciter biển số 59M1-069.00 trong hẻm 146 ra đường Vũ Tùng, phường 2, quận Bình Thạnh quan sát thấy người bị hại chị Hồ Thị T T đang đi bộ trên đường có sử dụng điện thoại di động nên đã nảy sinh ý định cướp giật. Bị cáo điều khiển xe áp sát rồi dùng tay trái giật điện thoại di động chị T nhưng không chụp trúng điện thoại mà chụp trúng tay trái của chị T rồi mất lái ngã xe xuống đường, được sự hổ trợ của quần chúng nhân dân và bị hại tham gia bắt được bị cáo giao cho Công an phường 2, quận Bình Thạnh xử lý. Tại cơ quan điều tra, bị cáo Phan M T thừa nhận hành vi phạm tội như trên, bị cáo thực hiện hành vi cướp giật tài sản với lỗi cố ý trực tiếp, tội phạm đã hoàn thành. Mục đích cướp giật nhằm lấy điện thoại để sử dụng cho bản thân, ngoài ra không có mục đích nào khác.

[4] Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản số: 261/KLĐGTS-TCKH ngày 17/7/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận Bình Thạnh, kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS max 256GB trị giá 22.000.000 đồng.

[5] Từ những hành vi và chứng cứ nêu trên, đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Phan M T đã cấu thành tội “Cướp giật tài sản” thuộc trường hợp “dùng thủ đoạn nguy hiểm”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 nên Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố là có căn cứ và đúng pháp luật.

[6] Bị cáo Phan M T với tuổi đời còn rất trẻ và đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, tuy nhiên với bản tính ham chơi, lười lao động, bị cáo đã có hành vi sử dụng xe gắn máy nhanh chóng áp sát người bị hại để cướp giật tài sản khi người bị hại đang đi bộ trên đường có sử dụng điện thoại di động và nhanh chóng tẩu thoát, hành vi này có thể gây nguy hiểm cho người bị hại và khi bị cáo tẩu thoát có thể gây nguy hiểm cho những người tham gia giao thông khác. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa pH, gây hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân. Bị cáo tuổi đời còn trẻ nhưng thể hiện bản tính táo bạo, liều lĩnh và xem thường pháp luật.

[7] Hành vi phạm tội của bị cáo do nông nổi, nhất thời, mục đích cướp giật nhằm nhằm lấy điện thoại sử sụng cho bản thân, ngoài ra không có mục đích nào khác. Khi thực hiện hành vi cướp giật, bị cáo chưa chiếm đoạt được tài sản của bị hại, khi cướp giật bị cáo chụp trúng tay của bị hại, sau đó bị ngã xe và bị bắt giữ. Vì vậy, căn cứ vào hành vi, tính chất, mức độ, nhân thân của các bị cáo, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng mức hình phạt tương xứng, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội.

[8] Tuy nhiên, xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn, người bị hại cũng không yêu cầu các bị cáo bồi thường gì thêm về trách nhiệm dân sự. Nhân thân bị cáo là tốt, phạm tội lần đầu, trình độ học vấn thấp, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt thể hiện tính nhân đạo của pháp luật. Ngoài ra bị cáo Phan M T khi phạm tội trong độ vị thành niên, từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi, nên Hội đồng xét xử áp dụng thêm các Điều 90; 91 và 101 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để quyết định hình phạt là phù hợp với quy định của pháp luật.

[9] Về xử lý vật chứng:

- 01 điện thoại di động ghi hiệu Iphone XS max 256G màu đen là tài sản hợp pháp của người bị hại, Cơ quan điều tra đã trả cho bị hại theo quy định, do đó Hội đồng xét xử không xét.

- 01 xe mô tô hiệu Exciter biển số 59M1 – 069.00 là pH tiện bị can sử dụng để cướp giật tài sản, do Phan Thành PH, sinh năm 1996, ngụ tại 130/44/16 Phú Định, Phường 16, Quận 8 đứng tên chủ sở hữu. PH đã bán xe cho Võ Văn T, sinh năm 1988, ngụ tại 24/2/24 lầu 2 Chung cư Phan Văn Khỏe, Phường 5, Quận 6 năm 2018 nhưng chưa làm thủ tục sang tên. T để xe tại tiệm của Phan M T để sửa, không biết việc Tiến dùng xe của mình đi cướp giật tài sản. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Bình Thạnh đã tiến hành trả xe cho Võ Văn T theo quy định, do đó Hội đồng xét xử không xét.

- 01 điện thoại di động Iphone XS max màu vàng thu giữ của Tiến, Cơ quan điều tra xác định là điện thoại Tiến mượn của mẹ tên Nguyễn Thị Thu H nên trả cho bà H theo quy định, do đó Hội đồng xét xử không xét.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Hồ Thị T T đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì khác, do đó Hội đồng xét xử không xét.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại các Điều 135, Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phan M T phạm tội “Cướp giật tài sản”;

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; Điều 38; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 90, 91 và Điều 101 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Phan M T 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/7/2019.

- Áp dụng các Điều 135; 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm Bị cáo, đại diện hợp pháp và Luật sư bào chữa chỉ định cho bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 168/2019/HSST ngày 20/11/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:168/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về