Bản án 168/2019/HS-ST ngày 18/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 168/2019/HS-ST NGÀY 18/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 161/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 164/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

H X T (tên khác Bờm) sinh năm 1994 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: Xóm 12, xã P, huyện Ph, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông H X T, sinh năm 1945 và bà Đ Th B Y, sinh năm 1956; vợ bà Th Ng Th, sinh năm 1989; có 02 con lớn nhất sinh năm 2016, nhỏ nhất sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 13 tháng 9 năm 2013 bị Tòa án nhân dân huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 04 tháng 11 năm 2014. Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 01 tháng 3 năm 2019 đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Công ty trách nhiệm hữu hạn Sidihon Investment (Việt Nam); trụ sở: Khu phố Bình Giao, phường Thuận Giao, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương.

Người đại diện theo ủy quyền của bị hại: Ông L V C, sinh năm 1979; địa chỉ: Số 20, Huỳnh T, khu phố T, phường Tân Bình, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông L Q C, sinh năm 1952; địa chỉ: Số 124 An Dương Vương, phường A, Thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, vắng mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người làm chứng: Ông Ng Kh, sinh năm 1989; ông V V Q, sinh ăm 1968; ông Ng H K, sinh năm 1979, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

H X T trước đây là công nhân của Công ty TNHH Sidihon Ivestment (Việt Nam) địa chỉ tại khu phố Bình Giao, phường Thuận Giao, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương làm việc từ tháng 3 năm 2017 đến tháng 9 năm 2018 thì nghỉ việc nên T biết trong kho vật tư của Công ty có nhiều vật tư làm bằng nhôm nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản.

Vào khoảng 20 giờ ngày 01 tháng 3 năm 2019, T điều khiển xe mô tô Biển số 75F5-7081 đến công ty TNHH Sidihon Ivestment (Việt Nam) rồi giấu xe vào bụi cây cạnh vách tường rào của Công ty. Sau đó, T leo tường rào vào trong Công ty đến kho vật tư thuộc xưởng A lấy trộm 06 khay nhựa chứa 592 thanh nhôm rồi vận chuyển đến vách tường rào cuối kho xưởng A. Tân lấy 03 sợi dây vải có sẵn tại Công ty buộc vào 06 khay chứa thanh nhôm và kéo lên tấm đan ở cửa sổ cạnh hàng rào Công ty. T leo lên tấm đan lấy 02 khay chứa thanh nhôm ném ra phía ngoài hàng rào và chuẩn bị chất 02 khay chứa thanh nhôm lên xe để chở đi thì bị người dân cùng lực lượng bảo vệ của Công ty phát hiện bắt giữ.

Vật chứng thu giữ gồm: 06 khay nhựa chứa 592 thanh nhôm có tổng trọng lượng là 148kg;03 sợi dây vải và 01 xe mô tô biển số 75F5-7081.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 05 tháng 3 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã Thuận An kết luận 592 thanh kim loại bằng nhôm có trọng lượng 148 kg trị giá 9.620.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 178/CT-VKS-TA ngày 24 tháng 6 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo H X T về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa: Bị cáo H X T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, không có ý kiến gì về nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng Khoản 1 Điều 173; Điểm h, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo H X T mức án từ 09 tháng đến 12 tháng tù. Và đề nghị xử lý vật chứng cụ thể:

Đối với 592 thanh nhôm chứa trong 06 khay nhựa và 03 sợi dây vải thuộc sở hữu của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sidihon Investment (Việt Nam) nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho Công ty.

Đối với xe mô tô Biển số 75F5-7081 T sử dụng làm phương tiện thực hiện tội phạm, T khai mua của một người đàn ông không rõ lai lịch địa chỉ. Qua xác minh, có căn cứ xác định chiếc xe nêu trên do ông L Q C là người đứng tên giấy đăng ký xe. Ông C khai đã bán lại cho một người phụ nữ không rõ lai lịch. Cơ quan điều tra đã thông báo truy tìm chủ sở hữu, nhưng đến nay chưa có ai đến liên hệ giải quyết nên đề nghị giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An tiếp tục điều tra và xử lý theo thẩm quyền.

Về trách nhiệm dân sự bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và người tham gia tố tụng khác không khiếu nại, tố cáo về các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo H X T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo tại phiên toà và tại cơ quan điều tra đều thống nhất với nhau; phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ về thời gian, địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 01 tháng 3 năm 2019 tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Sidihon Investment (Việt Nam) thuộc khu phố Bình Giao, phường Thuận Giao, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, H X T có hành vi lấy trộm 06 khay chứa 592 thanh nhôm trị giá 9.620.000 đồng.

Như vậy, hành vi của bị cáo H X T đã đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An truy tố bị cáo về tội danh và khung hình phạt là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét hành vi của bị cáo H X T là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức được việc làm của mình là vi phạm, nhưng vì thỏa mãn nhu cầu cá nhân, có tiền tiêu xài, bị cáo lợi dụng sự sơ hở của người khác rồi lén lút chiếm đoạt tài sản của họ, hành vi của bị cáo trực tiếp xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, trị an tại địa phương, lỗi của bị cáo là cố ý trực tiếp. Vì vậy, cần phải có mức hình phạt tương xứng với tội phạm và hậu quả mà bị cáo đã gây ra, nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt cần xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản chiếm đoạt đã trả cho bị hại; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo Điểm h, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 cho bị cáo.

[6] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị Tòa án nhân dân huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.

[7] Lời đề nghị mức hình phạt của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An tại phiên tòa là có căn cứ, đúng luật, phù hợp tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại Công ty trách nhiệm hữu hạn Sidihon Investment (Việt Nam) đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[9] Về xử lý vật chứng:

Đối với 592 thanh nhôm chứa trong 06 khay nhựa và 03 sợi dây vải là tài sản bị cáo chiếm đoạt thuộc sở hữu của Công ty trách nhiệm hữu hạn Sidihon Investment (Việt Nam) nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại cho Công ty là phù hợp.

Đối với xe mô tô Biển số 75F5-7081 Tân sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi tội phạm, T khai mua của một người đàn ông không rõ lai lịch địa chỉ. Qua xác minh, có căn cứ xác định chiếc xe nêu trên do ông L Q C là người đứng tên giấy đăng ký xe. Ông C khai đã bán lại cho một người phụ nữ không rõ lai lịch nên Cơ quan điều tra đã thông báo truy tìm chủ sở hữu, nhưng đến nay chưa có kết quả. Do đó, đại diện Viện kiểm sát đề nghị giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An tiếp tục điều tra và xử lý theo thẩm quyền là phù hợp.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173; Điều 47; Điểm h, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo H X T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo H X T 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 01 tháng 3 năm 2019.

2. Về xử lý vật chứng: Giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An 01 xe mô tô Biển số 75F5-7081, kiểu dáng Wave, màu xanh, số máy 90224; số khung 11957 (xe không chìa khóa, không kiếng, ốp bửng bên phải rời và không kiểm tra bên trong) để tiếp tục xác minh và giải quyết theo thẩm quyền.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 24 tháng 6 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí: Bị cáo H X T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

278
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 168/2019/HS-ST ngày 18/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:168/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về