Bản án 168/2018/HS-ST ngày 20/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 168/2018/HS-ST NGÀY 20/09/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 152/2018/TLST-HS ngày 15 tháng 8 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 159/2018/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Đỗ Minh S (tên gọi khác: T), sinh năm 1991 tại tỉnh Bình Dương; nơi cư trú: 1/183 khu phố H, phường T, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Minh N (đã chết) và bà Trương Thị V, sinh năm 1956, bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án: 01.

Năm 2013 bị Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 03 năm tù về tội cướp giật tài sản, 09 tháng tù về tội trốn khỏi nơi giam giữ theo Bản án số 122/2013/HSST ngày 02/5/2013; tổng hợp với hình phạt 02 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản của Bản án số 125/2012/HSST ngày 12/12/2012 của Tòa án nhân dân huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. Đỗ Minh S phải chấp hành tổng hình phạt là 06 năm 03 tháng tù, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/01/2017.

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 27/5/2018, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Ông Trần Phát Đ, sinh năm 1993; nơi thường trú: Ấp C, xã H, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang. Tạm trú: 6/10C khu phố B, phường L, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương (có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Trương Thị V, sinh năm 1956; nơi thường trú: 1/183 khu phố H, phường T, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương (vắng mặt).

Người làm chứng: Ông Trần Văn C, sinh năm 1995; nơi thường trú: Ấp C, xã H, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang. Tạm trú: 6/10C khu phố B, phường L, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương (có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 27/5/2018, Đỗ Minh S điều khiển xe mô tô biển số 61C1 - 484.13 đến nhà trọ tại địa chỉ 6/10C khu phố B, phường L, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương để tìm người bạn tên T. Đến nơi, S dựng xe bên ngoài và đi bộ vào trong dãy nhà trọ tìm Thành nhưng không thấy. Khi đi ngang phòng trọ số 17, thấy ông Trần Phát Đ đang nằm ngủ dưới nền nhà, phía trên bàn nhỏ có 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu vàng Gold, 01 ví da bên trong có 263.000 đồng nên S đã nảy sinh ý định chiếm đoạt, thực hiện ý định S đã lấy điện thoại, ví da cho vào túi quần bên phải phía sau và ra xe định tẩu thoát thì bị người dân phát hiện, bắt giữ giao cho Công an phường L lập biên bản quả tang, chuyển Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An giải quyết theo thẩm quyền.

Tang vật thu giữ gồm: 01 xe mô tô biển số 61C1- 484.13; 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu vàng Gold và 01 ví da bên trong có 263.000 đồng.

Theo Biên bản định giá tài sản và Kết luận định giá tài sản ngày 01/6/2018 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thị xã Thuận An xác định 01 chiếc điện thoại Samsung J7 màu vàng Gold bị cáo chiếm đoạt có trị giá 2.500.000 đồng; 01 ví da trị giá 50.000 đồng và số tiền 263.000 đồng trong ví tổng giá trị tài sản là 2.813.000 đồng.

Bản Cáo trạng số 163/CT-VKS-TA ngày 14/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Đỗ Minh S về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Đỗ Minh S đã khai nhận toàn bộ hành vi như Cáo trạng truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Kiểm sát viên trình bày lời luận tội trong đó có nội dung giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các vấn đề như sau: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm; về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đỗ Minh S mức hình phạt từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không khiếu nại, tố cáo về các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là đúng quy định của pháp luật.

[2] Về tội danh: Lời khai nhận của bị cáo Đỗ Minh S tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và vật chứng thu giữ trong vụ án nên có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 27/5/2018 tại phòng trọ số 17, nhà trọ số 6/10C khu phố B, phường L, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương bị cáo Đỗ Minh S đã cố ý thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 màu vàng Gold, 01 ví da và số tiền 263.000 đồng có trong ví, tổng giá trị là 2.813.000 đồng của ông Trần Phát Đ đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An truy tố bị cáo S về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, những ai xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác một cách trái pháp luật sẽ bị pháp luật chế tài bằng hình phạt. Bị cáo nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật và sẽ bị trừng trị nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi nên bị cáo đã cố ý thực hiện. Bị cáo đang ở tuổi lao động, đáng lẽ phải cố gắng lao động để tạo thu nhập chính đáng nuôi sống bản thân, gia đình nhưng bị cáo lại không lao động, thích sống hưởng thụ, lợi dụng sự sơ hở của người khác để chiếm đoạt tài sản. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản của người khác một cách trái pháp luật, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương.

Do vậy, cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhằm cải tạo, giáo dục riêng cho bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Đỗ Minh S đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn theo quy định tại các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Từ những nhận định nêu trên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An đề nghị áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo S là phù hợp.

[6] Về xử lý vật chứng thu giữ và trách nhiệm dân sự trong vụ án:

Đối với chiếc điện thoại hiệu Samsung J7 màu vàng Gold, 01 ví da bên trong có 263.000 đồng mà bị cáo chiếm đoạt, quá trình điều tra xác định những tài sản trên thuộc sở hữu hợp pháp của ông Trần Phát Đ nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An đã trả lại cho ông Đ là đúng quy định pháp luật. Đồng thời, ông Đ không yêu cầu bị cáo bồi thường gì khác nên không đặt ra xem xét. Đối với xe mô tô biển số 61C1- 484.13, quá trình điều tra xác định chiếc xe này thuộc sở hữu của bà Trương Thị V. Ngày 27/5/2018 bà V cho bị cáo S mượn làm phương tiện đi lại, bà V không biết S sử dụng chiếc xe này vào việc phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Thuận An đã trả xe cho bà Vân là đúng quy định pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự;

- Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự;

- Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Đỗ Minh S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Đỗ Minh S 10 (mười) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/5/2018.

2. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 168/2018/HS-ST ngày 20/09/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:168/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về