TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 168/2017/HSPT NGÀY 13/12/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 13 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 195/2017/HSPT ngày 24 tháng 10 năm 2017 đối vớiđối với bị cáo Kim Thị Tố Q, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 178/2017/HSST ngày 08 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
Bị cáo có kháng cáo:
Kim Thị Tố Q (tên gọi khác: B), sinh năm: 1993, tại: Khánh Hòa; trú tại: Tổ 1 H, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Chủ sơ sở massage; trình độ học vấn: 10/12; con ông Kim Thành D và bà Nguyễn Thị Kim L; có chồng (đã ly hôn) và 01 người con.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Có mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra còn có bị cáo Lê Phước Trần Thị Hồng N có kháng cáo, nhưng do kháng cáo đã quá hạn và không có lý do chính đáng, nên Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo quá hạn của bị cáo Lê Phước Trần Thị Hồng N.
NHẬN THẤY
Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang và bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Kim Thị Tố Q là chủ tiệm massage Y, địa chỉ: Số 4B đường L, phường X, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Lê Phước Trần Thị Hồng N và Nguyễn Thị Thanh T là nhân viên. Do muốn có tiền tiêu xài, Q và N đã tự hiểu với nhau khi có khách vào thì N sẽ che khuất tầm nhìn và làm cho khách không để ý để Q thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.
Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 08 tháng 01 năm 2017, ông S và vợ là bà J (đều mang quốc tịch Trung Quốc) đến tiệm để massage. Cả hai được đưa vào cùng một phòng, N massage cho bà J, T massage cho ông S. N yêu cầu khách cởi quần áo, ông S và bà J đều để hai giỏ xách lên kệ phía dưới chân giường rồi nằm úp mặt vào vách tường, sau đó kéo rèm ngăn giữa hai giường lại.
Khoảng 19 giờ cùng ngày, Q đi về. Biết có khách đang massage, thấy vợ chồng ông S đang nằm sấp, Q lén lút đi vào phòng, thấy Q vào phòng, N che chắn làm cho khách không để ý, Q đến lục hai giỏ xách của vợ chồng ông S trộm cắp được 1000 (một nghìn) nhân dân tệ, 65 USD (sáu mươi lăm đô la Mỹ) rồi đi ra ngoài. Sau đó, Q cho N 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng) tiền công đã che chắn để cho Q trộm cắp tài sản. Đến ngày 09 tháng 01 năm 2017, vợ chồng ông S đến Công an phường X trình báo.
Qua quá trình điều tra xác định: Trước đó, cũng bằng thủ đoạn tương tự, khoảng 11 giờ 30 phút ngày 08 tháng 01 năm 2017, Q đã trộm cắp 300 USD (ba trăm đô la Mỹ), 2.500.000 đồng (hai triệu năm trăm nghìn đồng) của ông Nguyễn Hùng Đ khi ông Đ được Q massage tại tầng 1 và cùng với N trộm cắp 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) của ông Trương N khi ông Trương N đang được N massage tại tầng 2.
Tổng số tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt được trong hai vụ có giá trị 14.272.560 đồng (mười bốn triệu hai trăm bảy mươi hai nghìn năm trăm sáu mươi đồng).
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 178/2017/HSST ngày 08 tháng 9 năm 2017 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa đã quyết định:
- Áp dụng Khoản 1 Điều 138; Điểm g (phạm tội nhiều lần) Khoản 1 Điều 48; Điểm p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Kim Thị Tố Q,
- Xử phạt bị cáo Kim Thị Tố Q 09 (chín) tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”.
- Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử phạt bị cáo Lê Phước Trần Thị Hồng N 06 (sáu) tháng tù, quyết định về trách nhiệm dân sự, vật chứng, án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo. Ngày 11 tháng 9 năm 2017, bị cáo Kim Thị Tố Q kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giảm hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa đề nghị Hội đồng xét xử: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,
XÉT THẤY
- Về thủ tục tố tụng Bị cáo Kim Thị Tố Q kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn luật định, nên kháng cáo của bị cáo được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
- Xét kháng cáo của bị cáo:
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Kim Thị Tố Q đã khai nhận những hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như bản án sơ thẩm đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợpvới lời khai của bị cáo Lê Phước Trần Thị Hồng N, của những người bị hại trong vụ án và các chứng cứ do Cơ quan Cảnh sát điều tra thu thập. Như vậy, đủ cơ sở để kết luận:
Ngày 08 tháng 01 năm 2017, Kim Thị Tố Q đã có hành lén lút chiếm đoạt của các ông, bà S , J, Nguyễn Hùng Đ và Trương N nhiều tài sản gồm nhân dân tệ, đô la Mỹ và tiền Việt Nam với tổng giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt là 14.272.560 đồng (mười bốn triệu hai trăm bảy mươi hai nghìn năm trăm sáu mươi đồng). Hành vi đó của bị cáo đã có đủ các yếu tố cần thiết cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại Khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác. Kim Thị Tố Q là người giữ vai trò chủ mưu, phạm tội nhiều lần. Do đó, cần cách ly ra khỏi xã hội để giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Xem xét về hình phạt củabị cáo: Ngoài các tình tiết giảm nhẹ mà cấp sơ thẩm đã áp dụng, cấp phúc thẩm thấy tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị không lớn nên áp dụng thêm tình tiết này giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của Nhà nước mà tích cực cải tạo.
- Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp phúc thẩm không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Điều 248; Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật tố tụng Hình sự,
1. Sửa một phần bản án sơ thẩm:
- Áp dụng Khoản 1 Điều 138; Điểm g (phạm tội nhiều lần) Khoản 1 Điều 48; các Điểm g, p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Kim Thị Tố Q (tên gọi khác: B),
- Xử phạt bị cáo Kim Thị Tố Q 06 (sáu) tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.
2. Bị cáo Kim Thị Tố Q không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 168/2017/HSPT ngày 13/12/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 168/2017/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/12/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về