Bản án 167/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 167/2020/HS-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 11 năm 2020, tại Nhà văn hóa khu hành chính 1, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 151/2020/HSST ngày 23 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:153/2020/QĐXXST-HS ngày 26/10/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 67/2020/HSST-QĐ ngày 10/11/2020 đối với bị cáo:

Dịch Thị T , sinh ngày: 24/3/1995 tại Tuyên Quang; nơi đăng ký hộ khẩu và chỗ ở: Thôn Q, xã H, huyện Tam D , tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dịch Văn S (đã chết) và bà Hoàng Thị H; có chồng là Phan Văn P và có 02 con (con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2018); Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 03/7/2020 đến ngày 07/7/2020 được tại ngoại, bị cáo đang có thai (có mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Anh Hà Văn C , sinh năm 1994; trú tại thôn Đ, xã Thái Hòa, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

- Anh Phan Văn P , sinh năm 1988, trú tại: Thôn Q, xã Hướng Đạo, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 15 phút ngày 03/7/2020, tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc làm nhiệm vụ tại khu vực vòng xuyến khu đô thị Chùa Hà thuộc khu đô thị Chùa Hà, xã Định Trung, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, phát hiện bắt quả tang Dịch Thị T , đang có hành vi bán trái phép chất ma tuý cho Hà Văn C . Tang vật thu giữ: Thu giữ trong lòng bàn tay phải của T 01 gói nilon bên trong chứa tinh thể dạng đá, niêm phong bì thư ký hiệu A1 (T khai nhận đây là gói ma túy đá của T đang định bán cho C nhưng chưa kịp bán thì bị phát hiện bắt quả tang); thu giữ trong lòng bàn tay trái của T số tiền 500.000,đ do bán ma túy cho C mà có. Tạm giữ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung màu xanh đen và 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu trắng BKS: 88K1-374.12.

Cùng ngày 03/7/2020, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Vĩnh Phúc ra quyết định trưng cầu giám định chất ma tuý trong mẫu ký hiệu A1 thu giữ của Dịch Thị T . Tại kết luận giám định số 1638/KLGĐ ngày 06/7/2020 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Tinh thể dạng đá màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma tuý, có khối lượng 0,2581g loại Methamphetamine. Hoàn trả lại mẫu vật sau giám định gồm 0,2021g mẫu cùng toàn bộ bao gói.

Về nguồn gốc số ma túy quá trình điều tra T khai nhận: Khoảng hơn 09 giờ, ngày 03/7/2020, T đang ở nhà tại thôn Q, xã H, huyện Tam D , tỉnh Vĩnh Phúc thì Hà Văn C gọi điện qua tài khoản mạng Zalo của C là “Sau nỗi đau ta lại trưởng thành” đến tài khoản mạng Zalo của T là “Lừa tình không anh”. C hỏi mua của T 500.000,đ tiền ma túy đá và hẹn gặp T để trao đổi mua bán ma túy tại khu vực vòng xuyến gần Km số 3, Quốc lộ 2B thuộc địa phận xã Định Trung, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, T đồng ý. Sau khi thỏa thuận mua bán ma túy đá với C xong, T tiếp tục sử dụng mạng Zalo của T để gọi điện đến tài khoản mạng Zalo cho một người tên Q (T không biết tên, tuổi địa chỉ cụ thể của Q ở đâu và không biết số điện thoại của Q ), T hỏi mua của Q 400.000,đ tiền ma túy đá và hẹn Q mang ma túy đến nhà cho T , Q đồng ý. T ở nhà đợi một lúc thì Q một mình đi bộ đến nhà gặp và bán cho T 01 gói nilon nhỏ bên trong chứa ma túy đá với giá 400.000,đ. Sau khi bán ma túy cho T xong thì Q đi đâu T không biết, T cầm gói ma túy vừa mua được của Q rồi điều khiển xe máy BKS: 88K1-374.12 đến điểm hẹn để bán cho C . Khi đến nơi hẹn, T thấy C đang đứng cùng một người bạn của C là anh Đặng Văn T , sinh năm: 1991, trú tại: thôn Bản Long, xã Minh Quang, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Nhìn thấy T , thì C một mình đi bộ đến gặp và đưa cho T số tiền 500.000,đ để mua ma túy. T cầm tiền ở tay trái nhưng chưa kịp đưa cho C gói ma túy đá thì bị Công an Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên.

Cùng ngày 03/7/2020, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của T tại thôn Q, xã H, huyện Tam D , tỉnh Vĩnh Phúc, kết quả không thu giữ đồ vật tài sản gì.

Cáo trạng số 161/CT-VKSTP.VY ngày 15/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên truy tố bị cáo Dịch Thị T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Dịch Thị T khai nhận thành khẩn về hành vi phạm tội của mình như nội dung nêu trên.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Phan Văn P trình bày và đề nghị xin nhận tại xe máy BKS: 88K1-374.12, ngoài ra không có ý kiến gì khác.

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Dịch Thị T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm n, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Dịch T từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 09 tháng tù; áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,2021gam ma túy (Methamphetamine) và toàn bộ bao gói được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “Mẫu trả” hoàn lại sau giám định; tịch thu, bán sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung và số tiền 500.000,đ do liên quan đến việc phạm tội; trả lại cho anh Phan Văn P chiếc xe máy BKS: 88K1-374.12, không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo không bào chữa và tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo Dịch Thị T tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau; phù hợp với lời khai của người liên quan về thời gian, địa điểm, mục đích, động cơ phạm tội; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với vật chứng đã thu giữ và kết luận giám định cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 11 giờ 15 phút ngày 03/7/2020 tại khu vực vòng xuyến khu đô thị Chùa Hà, xã Định Trung, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, Dịch Thị T đang có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Hà Văn C thì bị tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện bắt quả tang. Tang vật thu giữ trong lòng bàn tay phải của T 01 gói nilon bên trong chứa 0,2581g tinh thể dạng đá màu trắng, kết quả giám định là ma tuý Methamphetamine; thu trong lòng bàn tay trái của T số tiền 500.000đ; tạm giữ của T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung màu xanh đen và 01 xe máy Honda Wave màu trắng BKS: 88K1-374.12 đã qua sử dụng.

Hành vi nêu trên của bị cáo Dịch Thị T đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), có khung hình phạt đến 07 năm tù.

Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của Dịch Thị T là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý xã hội, chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội, làm nhân dân lên án và bất bình. Do đó cần phải xử lý nghiêm nhằm giáo dục, răn đe và phòng ngừa C .

Bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 có mức cao nhất của khung hình phạt đến 07 năm tù thuộc tội phạm nghiêm trọng.

Trước khi phạm tội bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Chỉ vì hám lời bị cáo đã bất chấp pháp luật để thực hiện hành vi phạm tội. Nên cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định để giáo dục cải tạo bị cáo sớm trở thành người công dân có ích cho xã hội.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo đó là: Bị cáo phạm tội khi đang có thai, tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm n, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng.

[2] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định bị cáo T không có tài sản riêng, không có thu nhập ổn định, bị cáo đang mang thai và nuôi 02 con còn nhỏ, nên Hội đồng xét xử không áp dụng phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai báo phù hợp với quy định của pháp luật và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[4] Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và hành vi liên quan trong vụ án:

Đối với người nam giới đã bán ma tuý cho T ngày 03/7/2020 tại nhà của T ở thôn Q, xã H, huyện Tam D , tỉnh Vĩnh Phúc, theo lời khai của T người nam giới này tự giới thiệu tên là Q nhà ở huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Hai người quen nhau khoảng hơn 1 năm khi gặp nhau ở địa bàn thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, Q khoảng 35 tuổi, dáng người cao khoảng 1m70. T không biết họ tên, tuổi và địa chỉ cụ thể của Q ở đâu. T chỉ lưu tài khoản Zalo của Q là “A Q ”. Quá trình điều tra ngoài lời khai của T , không có tài liệu chứng cứ gì khác, nên Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với Hà Văn C người mua ma tuý của T mục đích để sử dụng cho bản thân, quá trình điều tra xác định hành vi mua bán đang diễn ra giữa C và T thì bị phát hiện, C chưa nhận được ma tuý của T đưa. Do vậy, Cơ quan điều tra không xử lý đối với C về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Đối với anh Đặng Văn T là người đã điều khiển xe máy chở Hà Văn C đi mua ma túy, quá trình điều tra xác định anh Thủy không biết và không liên quan đến việc mua bán ma túy giữa T và C . Do vậy Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với anh Thủy là phù hợp.

Đối với chiếc điện thoại di động Hà Văn C sử dụng để liên lạc mua ma tuý của Dịch Thị T , quá trình điều tra xác định do C mượn chiếc điện thoại của người lạ trên đường sau khi gọi xong, C đã trả lại điện thoại cho người này. Do vậy Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

[5] Về Vật chứng của vụ án:

Đối với 0,2021g ma tuý Methamphetamine cùng toàn bộ bao gói còn lại sau giám định cần tịch thu tiêu huỷ.

Về số tiền 500.000,đ thu giữ trong lòng bàn tay phải của T , quá trình điều tra xác định là tiền do T bán trái phép chất ma túy cho C mà có, nên cần tịch thu xung quỹ nhà nước.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo T , quá trình điều tra xác định T sử dụng chiếc điện thoại trên để nhắn tin qua zalo với người bán ma túy cho T là Q và người mua ma túy của T là anh C , nên cần tịch thu bán sung quỹ nhà nước.

Đối với 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave BKS: 88K1-374.12 đã qua sử dụng tạm giữ của bị cáo T . Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định là tài sản riêng của anh Phan Văn P (chồng của T ). Ngày 03/7/2020, T sử dụng xe máy làm phương tiện phạm tội, anh Phòng không biết, không liên quan gì, do vậy cần trả lại chiếc xe trên cho anh Phan Văn P .

[6] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm n, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Dịch Thị T 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án được trừ đi thời gian bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 03/7/2020 đến ngày 07/7/2020.

Căn cứ vào khoản 1, 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu, tiêu hủy 0,2021g ma tuý Methamphetamine cùng toàn bộ bao gói còn lại sau giám định.

- Tịch thu, bán, xung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung màu đen và số tiền 500.000,đ đã thu giữ của T .

- Trả lại anh Phan Văn P 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave BKS: 88K1- 374.12. (Đặc điểm tang vật như biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/11/2020).

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; bị cáo Dịch Thị T phải chịu 200.000,đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên có mặt có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 167/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:167/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về