Bản án 167/2020/HNGĐ-ST ngày 27/07/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 167/2020/HNGĐ-ST NGÀY 27/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 27 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 743/2020/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 7 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 239/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Trần Thị L, sinh năm 1979;

HKTT: Số X, Âu Cơ, phường 10, quận T, thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh Li, sinh năm 1975;

HKTT: Số X, Âu Cơ, phường 10, quận T, thành phố Hồ Chí Minh, Tạm trú: Khu vực 5, thị trấn Y, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 13 tháng 7 năm 2020 và những lời khai tiếp theo cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn bà Trần Thị L trình bày:

Bà và ông Nguyễn Thanh Li có tìm hiểu nhau, sau đó chúng tôi tiến tới hôn nhân vào năm 1998, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 10, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh ngày 14/10/2008. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến cuối năm 2019, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi vã, mâu thuẫn trầm trọng. Ông Li bỏ bê công việc, không lo làm ăn, nghiện ma túy. Ông Li uống rượu về chọi dao bà nên bà có chém ông Li 1 cái. Bà đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng ông Li vẫn không thay đổi tính tình. Vợ chồng đã ly thân từ tháng 5/2020 cho đến nay. Nay, bà xác định tình cảm vợ chồng đã rạn nứt, không còn khả năng hàn gắn, nên bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với ông Li.

Về con chung: Quá trình chung sống, bà và ông Li có 01 con chung tên Nguyễn Tấn L, sinh ngày 30/10/2012, giới tính: Nam. Con đang sống chung với ông Li. Khi ly hôn, bà đồng ý giao con cho ông Li nuôi, bà không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Về nợ chung: Bà và ông Li không có nợ ai, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Nguyễn Thanh Li trình bày trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa: Ông thống nhất lời trình bày của bà L về thời gian chung sống, việc đăng ký kết hôn. Cuộc sống vợ chồng thỉnh thoảng xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống. Bà L trình bày không đúng. Ông có nghiện ma túy nhưng hiện nay đã cai được và đang đi làm thợ mộc. Bà L đã bỏ đi từ tháng 5/2020 cho đến nay. Nay bà L yêu cầu ly hôn thì ông không đồng ý.

Về con chung: Ông và bà L có 01 con chung như bà L trình bày. Con hiện đang sống chung với ông. Khi ly hôn, ông xin được quyền nuôi con, không yêu cầu bà L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Vợ chồng không có nợ ai, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện các thủ tục mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Các đương sự đều thống nhất các chứng cứ của vụ án đã được giao nộp đầy đủ và được công khai đúng thủ tục nhưng kết quả hòa giải đoàn tụ không thành nên đưa vụ án ra xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Bà Trần Thị L khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Thanh Li, đăng ký tạm trú tại Khu vực 5, thị trấn Y, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An (có xác nhận của công an thị trấn Y) nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, nguyên đơn, bị đơn có mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vụ án là phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà L và ông Li chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 10, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh ngày 14/10/2008 nên hôn nhân giữa ông bà là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Trong quá trình chung sống, bà L cho rằng cuối năm 2019, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi vã, mâu thuẫn trầm trọng. Ông Li bỏ bê công việc, không lo làm ăn, nghiện ma túy. Ông Li uống rượu về chọi dao bà nên bà có chém ông Li 1 cái. Bà đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng ông Li vẫn không thay đổi tính tình. Vợ chồng đã ly thân từ tháng 5/2020 cho đến nay. Nay, bà xác định tình cảm vợ chồng đã rạn nứt, không còn khả năng hàn gắn, nên bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với ông Li. Ngược lại ông Li cho rằng vợ chồng thỉnh thoảng xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống. Bà L trình bày không đúng. Ông có nghiện ma túy nhưng hiện nay đã cai được và đang đi làm thợ mộc. Bà L đã bỏ đi từ tháng 5/2020 cho đến nay. Nay bà L yêu cầu ly hôn thì ông không đồng ý. Xét thấy hôn nhân giữa bà L, ông Li đã không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc. Do đó yêu cầu xin ly hôn của bà L là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4]. Về con chung: Bà L và ông Li có con chung tên Nguyễn Tấn L, sinh ngày 30/10/2012, giới tính: Nam. Con đang sống chung với ông Li. Khi ly hôn, bà đồng ý giao con cho ông Li nuôi, bà không cấp dưỡng nuôi con. Ông Li đồng ý tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Xét thấy sự thỏa thuận của các đương sự là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5]. Về cấp dưỡng: Ông Li không yêu cầu bà L cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về tài sản chung và nợ chung: Bà L và ông Li đều xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí: Bà L phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung ngân sách nhà nước theo khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị L đối với ông Nguyễn Thanh Li về việc “Ly hôn”.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị L được ly hôn với ông Nguyễn Thanh Li.

2. Về con chung: Ông Li được quyền tiếp tục nuôi con chung tên Nguyễn Tấn L, sinh ngày 30/10/2012, giới tính: Nam. Con đang sống chung với ông Li. Bà L không phải cấp dưỡng nuôi con do ông Li không có yêu cầu.

Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Bà L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0005812 ngày 13/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An. Bà L đã nộp đủ.

Án xử sơ thẩm, công khai, nguyên đơn, bị đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 167/2020/HNGĐ-ST ngày 27/07/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:167/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về