TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 167/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/04/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 16 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 379/2019/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2019 về “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 02 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Đoàn Thị D, sinh năm 1978; địa chỉ cư trú: Tổ 22, ấp Kh, xã Kh, huyện C, tỉnh An Giang (có mặt).
- Bị đơn: Ông Đỗ Văn Đ, sinh năm 1973, địa chỉ cư trú: Tổ 20, ấp Kh, xã Kh, huyện C, tỉnh An Giang (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn Đoàn Thị D trình bày:
- Về hôn nhân: Bà và ông Đỗ Văn Đ do quen biết, tìm hiều nên tự nguyện tiến đến hôn nhân vào năm 1992 nhưng đến năm 2002 mới đăng ký kết hôn tại UBND xã Kh, huyện C, tỉnh An Giang. Thời gian đầu vợ chồng sống rất hạnh phúc nhưng thời gian sau vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn, nguyên nhân do ông Đ không tôn trọng bà và có hành vi bạo lực gia đình với bà. Bà đã nhiều lần hàn gắn lại hạnh phúc gia đình và khuyên ngăn nhưng ông chỉ hứa mà không thực hiện, vì vậy bà đã quyết định sống ly thân với ông Đ từ tháng 05/2015. Nay bà nhận thấy cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bá ly hôn với ông Đ.
- Về con chung: Trong thời gian chung sống bà với ông Đ có 03 (Ba) người con chung tên: Đỗ Thị Ngà, sinh ngày 29/11/1995; Đỗ Tuấn Thanh, sinh ngày 02/6/1998 và Đỗ Thị Nhi, sinh ngày 27/8/1993, hiện các con đã thành niên và có khả năng lao động nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn vắng mặt toàn bộ quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của bị đơn.
Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn, bị đơn vắng mặt không lý do.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, trong quá trình thụ lý vụ án Thẩm phán gửi thông báo thụ lý vụ án cho Viện kiểm sát không đảm bảo thời hạn theo quy định và vụ án đã quá thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng Chánh án chưa ban hành quyết định gia hạn là vi phạm tố tụng, nhưng xét thấy vi phạm này không làm ảnh hưởng đến nội dung giải quyết vụ án. Kiến nghị rút kinh nghiệm. Đối với người tham gia tố tụng là nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng. Đối với bị đơn Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác nhưng vẫn vắng mặt không lý do nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định của pháp luật.
Về hôn nhân: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. xét.
Về con chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị không xem Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị không xem xét.
Tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án gồm: Bản photo chứng minh nhân dân; Sổ hộ khẩu; Bản sao giấy khai sinh của Ngà, Thanh, Nhi; Giấy chứng nhận kết hôn; Biên bản xác minh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Tranh chấp giữa các đương sự về việc ly hôn, bị đơn có địa chỉ cư trú tại địa bàn huyện C, tỉnh An Giang nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2] Bị đơn Đỗ Văn Đ đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vắng mặt không lý do, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vẫn tiến hành xét xử vụ án là phù hợp quy định pháp luật.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân:
Bà D và ông Đ đã tự nguyện xác lập quan hệ vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Kh, huyện C, tỉnh An Giang, theo Giấy chứng nhận kết hôn số: 1170, ngày 17 tháng 10 năm 2002. Do đó, hôn nhân giữa bà D với ông Đ là hợp pháp, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Thời gian chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, đời sống chung không hòa hợp ông bà đã ly thân hơn 03 năm. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành hòa giải để vợ chồng đoàn tụ nhưng ông Đ vắng mặt không lý do. Theo biên bản xác minh ngày 28/8/2019 chính quyền địa phương cung cấp thông tin là bà D và ông Đ có mâu thuẫn do ông Đ thường xuyên nhậu nhẹt không quan tâm đến tình cảm vợ chồng. Cho thấy ông bà đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, bà D yêu cầu ly hôn với ông Đ là có cơ sở, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà D.
[2.2] Về con chung: Trong thời gian chung sống bà D với ông Đ có 03 (Ba) người con chung tên: Đỗ Thị Ngà, sinh ngày 29/11/1995; Đỗ Tuấn Thanh, sinh ngày 02/6/1998 và Đỗ Thị Nhi, sinh ngày 27/8/1993, hiện các con đã thành niên và có khả năng lao động nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[2.3] Tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về án phí: Bà D phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 235, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào các Điều 9, Điều 19, Điều 51, Điều 53, Điều 55, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
Căn cứ khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Đoàn Thị D được ly hôn ông Đỗ Văn Đ.
Giấy chứng nhận kết hôn số 1170, ngày 17 tháng 10 năm 2002 của Ủy ban nhân dân xã Kh, huyện C, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.
2. Về quan hệ con chung: Bà D và ông Đ có 03 con chung tên Đỗ Thị Ngà, sinh ngày 29/11/1995; Đỗ Tuấn Thanh, sinh ngày 02/6/1998 và Đỗ Thị Nhi, sinh ngày 27/8/1993. Hiện các con đã trưởng thành và có khả năng lao động, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
4. Về án phí: Bà Đoàn Thị D phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí bà D đã nộp theo biên lai thu số: 0001491 ngày 08 tháng 7 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.
5. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đối với đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án 167/2020/HNGĐ-ST ngày 16/04/2020 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 167/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/04/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về