TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 167/2019/HNGĐ-ST NGÀY 01/08/2019 VỀ LY HÔN
Ngày 01 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 677/2019/TLST-HNGĐ ngày 01/7/2019 về việc “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 199/2019/QĐXX-ST, ngày 12/7/2019 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh B, sinh năm 1983, có mặt.
2. Bị đơn: Ông Trần Văn C, sinh năm 1978, có mặt.
Địa chỉ: Cùng ấp NH 1, xã Đ, huyện Đ, tỉnh L.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn xin ly hôn ngày 26/6/2019 và tại phiên Tòa, nguyên đơn Bà Nguyễn Thị Thanh B trình bày tóm tắt như sau:
Bà và ông Trần Văn C là vợ chồng, cưới nhau từ năm 2005, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Đ, tỉnh L. Trong quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi vã nhau. Cuộc sống không hợp, không đem lại hạnh phúc, tình nghĩa vợ chồng rạn nứt khó mong hàn gắn nên bà yêu cầu xin ly hôn với ông Trần Văn C.
Con chung: Bà và ông C sống với nhau có 02 con chung tên Trần Nguyễn Trúc Ph, sinh ngày 12 tháng 5 năm 2006 và Trần Nguyễn Nhã Ph, sinh ngày 08 tháng 11 năm 2011, hiện nay các con chung sống với bà nếu như ly hôn bà yêu cầu được trực tiếp nuôi 02 con chung bà không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Bà trình bày về tài sản chung bà và ông C tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn: Ông Trần Văn C trình bày: ông xác nhận lời trình bày của bà B về điều kiện kết hôn, thời gian chung sống con chung cũng như tài sản chung và nợ chung như lời trình bày của bà B. Nhưng về tình cảm thì ông cho rằng giữa ông và bà B không có mâu thuẫn gì lớn, chỉ là chuyện nhỏ trong gia đình, vợ chồng có gây gỗ nhau, bà B tự ý bỏ về nhà cha mẹ ruột sống nhưng ông còn thương vợ, thương con không đồng ý ly hôn muốn vợ chồng đoàn tụ để cùng nhau nuôi dạy con chung. Nếu như có căn cứ Tòa án cho ly hôn thì con chung, các con muốn sống với ai thì người đó nuôi dưỡng tùy theo nguyện vọng của các con, về cấp dưỡng không bên nào cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung ông đồng ý theo lời trình bày của bà B, tài sản chung tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nợ chung không có không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên Toà, trên cơ sở trình bày của các đương sự, qua thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về tố tụng: Quan hệ pháp luật, Bà Nguyễn Thị Thanh B yêu cầu xin được ly hôn với Ông Trần Văn C, xét thấy đây là vụ án hôn nhân gia đình, thẩm quyền căn cứ vào Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, thẩm quyền giải quyết thuộc Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Thanh B và ông Trần Văn C cưới nhau vào năm 2005, có đăng ký kết hôn được Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Đ, tỉnh L cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 14/10/2005 (số 172/2005, quyển số 01/2005) nên quan hệ hôn nhân của bà B và ông C được pháp luật thừa nhận là hợp pháp từ thời điểm đăng ký kết hôn.
[3] Về tình cảm bà B cho rằng cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc là do không hợp nhau, thường xuyên cải vả, tình cảm vợ chồng rạng nứt, khó hàn gắn. Bà B đã bỏ về nhà cha mẹ ruột của bà sống từ năm 2018 cho đến nay và mối quan hệ vợ chồng chấm dứt từ đó. Nay bà B yêu cầu xin ly hôn ông Trần Văn C. Về con chung có 02 con chung, bà yêu cầu được trực tiếp nuôi 02 con chung không yêu cầu ông C cấp dưỡng, về tài sản chung bà B cho rằng tự thỏa thuận, nợ chung không có không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với ông Trần Văn C cho rằng về tình cảm vợ chồng ông cũng thừa nhận giữa ông và bà B có mâu thuẫn nhau nhưng chỉ là mâu thuẫn nhỏ trong gia đình, ông bà B tuy sống chung nhà nhưng hai bên chấm dứt quan hệ vợ chồng từ năm 2018 cho đến nay. Điều này cho thấy, chứng tỏ rằng về tình cảm vợ chồng giữa bà B và ông C có mâu thuẫn.
Nay bà B yêu cầu xin ly hôn ông C không đồng ý. Xét thấy tại tòa, bà B và ông C cả hai điều thừa nhận sống chung nhau có mâu thuẫn, tuy nhiên còn sống chung nhà nhưng chấm dứt quan hệ vợ chồng từ năm 2018 cho đến nay. Bà B yêu cầu xin ly hôn ông C không đồng ý nhưng ông C không có biện pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn giữa ông và bà B để bà B bỏ qua mâu thuẫn tiếp tục chung sống với ông. Mặt khác, tại Tòa bà B vẫn cương quyết ly hôn với ông C. Từ đó thấy rằng, mâu thuẫn giữa bà B và ông C là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 cho bà Nguyễn Thị Thanh B được ly hôn với ông Trần Văn C.
Về con chung cấp dưỡng nuôi con chung: Bà B và ông C thống nhất xác định có 02 con chung tên Trần Nguyễn Trúc Ph, sinh ngày 12 tháng 5 năm 2006 và Trần Nguyễn Nhã Ph, sinh ngày 08 tháng 11 năm 2011, Bà B và ông C thống nhất các con có nguyện vọng theo ai thì người đó có trách nhiệm nuôi dưỡng bên không trực tiếp nuôi không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.
Xét thấy, theo bản tự khai của Trúc Ph và Nhã Ph thì nguyện vọng muốn sống với mẹ nên khi giải quyết giữa bà B và ông C ly hôn nên tôn trọng nguyện vọng của cháu Trúc Ph và Nhã Ph cũng như yêu cầu của bà B khi ly hôn xin được nuôi các con chung, nên để cho bà B tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc các con chung, về cấp dưỡng nuôi con chung ông C không cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung và nợ chung: Bà B và ông C xác định tài sản chung tự thỏa thuận và nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
Trường hợp các bên không thỏa thuận được với nhau về tài sản chung và nợ chung thì được yêu cầu giải quyết bằng một vụ án dân sự khác.
[4] Về án phí: Bà Nguyễn Thị Thanh B phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 35, Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 luật hôn nhân gia đình; Điều 6 và Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận theo đơn khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thanh B đối với ông Trần Văn C.
Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Thanh B được ly hôn với ông Trần Văn C.
Về quyền nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung:
Bà Nguyễn Thị Thanh B được quyền trực tiếp nuôi cháu Trần Nguyễn Trúc Ph, sinh ngày 12 tháng 5 năm 2006 và cháu Trần Nguyễn Nhã Ph, sinh ngày 08 tháng 11 năm 2011. Ông Trần Văn C không cấp dưỡng nuôi con chung.
Bên không trực tiếp nuôi con được quyền tới lui thăm nom chăm sóc con chung, không ai được quyền ngăn cản, khi cần thiết các bên có thể thay đổi tình trạng nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con chung.
2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Thanh B tự nguyện chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình, sung ngân sách Nhà nước, được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0003010 ngày 01/7/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An để thi hành.
Án sơ thẩm công khai, nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưởng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Bản án 167/2019/HNGĐ-ST ngày 01/08/2019 về ly hôn
Số hiệu: | 167/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 01/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về