Bản án 167/2017/HSST ngày 26/10/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN - TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 167/2017/HSST NGÀY 26/10/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 10 năm 2017, tại trụ sở Nhà Văn hóa khối 9, phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã xét xử sơ thẩm lưu động vụ án hình sự thụ lý số174/2017/HSST ngày 05 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Trúc L, sinh ngày 20/01/1986 tại huyện C, tỉnh L; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Khu HB II, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh L; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1955, con bà Đinh Thị D, sinh năm 1957; Cha dượng Trần Văn M, sinh năm 1954; vợ, con: Chưa có; tiền sự, tiền án: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/7/2017 đến nay, có mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Nguyễn Trúc L bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn,tỉnh Lạng Sơn truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Ngày 08/7/2017 tổ công tác Công an thành phố Lạng Sơn đã triệu tập và dẫn giải Nguyễn Trúc L đến trụ sở Công an thành phố để làm rõ hành vi trộm cắp tài sản Nguyễn Trúc L thực hiện ngày 04/7/2017. Quá trình kiểm tra các tài sản trên người của Nguyễn Trúc L, Công an thành phố Lạng Sơn đã phát hiện và thu giữ 01 gói nhỏ có chứa chất bột màu trắng Nguyễn Trúc L cất giữ trong nắp vỏ ốp điện thoại hiệu SAMSUNG VIETTEL của mình.

Tại kết luận giám định số 288/KL-PC54 ngày 12/7/2017 của Phòng kỹthuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng trong 01 góinhỏ thu giữ của Nguyễn Trúc L là ma túy Heroine trọng lượng 0,149 gam.

Cáo trạng số 176/KSĐT ngày 05/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Trúc L về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Trúc L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1, 2 Điều 46, Điều 33 của Bộ luật hình sự 1999; khoản 3 Điều 7, khoản 1 Điều 249, của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017Nghị quyết  số 41/2017 của Quốc hội: xử phạt bị cáo Nguyễn Trúc L từ 15 (mười lăm) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo vì bị cáo không có việc làm, không có tài sản riêng. Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đựng mẫu vật sau giám định; tịch thu hóa giá sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG VIETTEL màu đen viền đỏ, số IMEI 353965/03/674414/9, máy đã qua sử dụng; tuyên trả cho bị cáo L 01 thẻ ngân hàng AGRIBANK mang tên Nguyễn Trúc L.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Trúc L khai nhận: Bản thân bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2016. Ngày 07/7/2017 bị cáo đi từ nhà ra khu vực cổng chợ Đ nhờ một người đàn ông không rõ tên tuổi, địa chỉ đi mua hộ 100.000đ tiền ma túy và trả công cho người đàn ông này 50.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, bị cáo vào nhà vệ sinh tại chợ Đ để sử dụng một phần, phần còn lại bị cáo cất vào nắp sau của chiếc điện thoại di động bị cáo đang sử dụng. Khoảng 22 giờ ngày 08/7/2017 khi bị cáo đang ở nhà người quen thì lực lượng công an thành phố Lạng Sơn dẫn giải bị cáo về công an thành phố Lạng Sơn để làm rõ hành vi trộm cắp tài sản bị cáo thực hiện ngày 04/7/2017. Tại cơ quan Công an thành phố Lạng Sơn, khi lực lượng Công an kiểm tra tư trang cá nhân đã phát hiện ra gói ma túy mà bị cáo cất đằng sau nắp điện thoại di động.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai bị cáo đã khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên toà.

Hành vi tàng trữ 0,149gam ma túy Hêroin của bị cáo Nguyễn Trúc L vào ngày 08/7/2017 đủ căn cứ để khẳng định bị cáo đã phạm vào tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự 1999 tội tàng trữ trái phép chất ma túy có khung hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù, nhưng tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 thì tội tàng trữ trái phép chất ma túy có khung hình phạt thấp hơn (khung hình phạt chỉ từ 01 đến 05 năm tù). Căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 và khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều249 Bộ luật hình sự 2015, Hội đồng xét xử sẽ xem xét áp dụng quy định có lợicho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội thấy rằng, hành vi mà bị cáo L thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, gây bất bình trong quần chúng nhân dân.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Ngoài ra bị cáo có cha dượng là ông Trần Văn M, đã được tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhì, bị cáo sinh sống, cư trú cùng ông M từ lâu cũng có một phần trách nhiệm phụng dưỡng, do vậy Hội đồng xét xử cũng xem xét theo quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo.

Xét về nhân thân: bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu.

Tuy biết rõ tác hại của ma túy cũng như các quy định của pháp luật liên quan đến việc phòng, chống tệ nạn ma túy, nhưng do lối sống buông thả, coi thường pháp luật, bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo gây ra cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định để giáo dục bị cáo và đảm bảo tính răn đe phòng ngừa chung.

Xét lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát và mức hình phạt đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không biết rõ họ tên, địa chỉ nên không có căn cứ điều tra làm rõ để xử lý, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với hành vi trộm cắp tài sản của Nguyễn Trúc L, cơ quan điều tra làm rõ và xử lý trong vụ án khác, Hội đồng xét xử không xem xét.

Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định là vật cấm lưu hành cần tịch thu để tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG VIETTEL số IMEI353965/03/674414/9 bị cáo sử dụng cất dấu ma túy, bị cáo đồng ý sung ngân sách nên tịch thu hóa giá sung ngân sách Nhà nước. Đối với 01 (một) thẻ ngânhàng AGRIBANK mang tên Nguyễn Trúc L, không liên quan đến hành vi phạmtội nên tuyên trả cho bị cáo.

Bị cáo phải chịu án phí và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trúc L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1, 2 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999; khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trúc L 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 09/7/2017.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 41 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật sau giám định.

Tịch thu hóa giá sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG VIETTEL màu đen viền đỏ, có số IMEI 353965/03/674414/9 máy cũ đã qua sử dụng.

Tuyên trả cho bị cáo 01 thẻ ATM của ngân hàng AGRIBANK mang tên Nguyễn Trúc L.

(Vật chứng trên đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/9/2017)

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Trúc L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, sung công quỹ Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự .

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

341
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 167/2017/HSST ngày 26/10/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:167/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về