Bản án 167/2017/DS-PT ngày 31/07/2017 về tranh chấp đòi lại tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 167/2017/DS-PT NGÀY 31/07/2017 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI LẠI TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân Cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 98/2017/TLPT–DS ngày 06 tháng 6 năm 2017 về tranh chấp đòi lại tài sản.

Do bản án dân sự sơ thẩm: 1445/2012/DS-ST ngày 21 tháng 9 năm 2012 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 392/2017/QĐ-PT ngày 05 tháng 7 năm 2017, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Chernicki Ngọc A, sinh năm 1976 (vắng mặt). Cư trú tại địa chỉ: M Stress, W M 02188, USA. Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (được ủy quyền theo văn bản ngày 27/4/2011): Ông Trương Vinh Q, sinh năm 1967 (có mặt). Cư trú tại địa chỉ: đường M1, phường B, quận B1, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: Ông Phan Anh T, sinh năm 1978 (vắng mặt).

Địa chỉ thường trú: Ấp X, xã L, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Địa chỉ tạm trú: đường T1, Phường Y, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn (được ủy quyền theo văn bản ngày 05/7/2017): Ông Đặng Gia H, sinh năm 1978 (có mặt). Cư trú tại địa chỉ: đường X1, Phường Y1, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người làm chứng: Bà Báo Nguyên Thái K, sinh năm 1977 (có mặt).

Cư trú tại địa chỉ: đường X1, Phường Y1, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người kháng cáo: Bị đơn ông Phan Anh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Chernicki Ngọc A trình bày yêu cầu nội dung khởi kiện:

Vào năm 2009 bà Chernicki Ngọc A về Việt Nam có quen biết với ông Phan Anh T, bà Ngọc A có ý định về Việt Nam đầu tư làm ăn ở Việt Nam và cần mua một chiếc xe ô tô để làm phương tiện đi lại nên nhờ ôngTmua xe giúp và làm thủ tục cho bà Ngọc Ađứng tên sở hữu. Sau khi bà Ngọc A về Mỹ, ôngT liên lạc nói đã tìm mua được xe ô tô hiệu Honda Civic tại đại lý bán xe KT với giá 40.000 USD. Vào các ngày 31/3/2009, 14/4/2009 bà Chernicki Ngọc A gửi về cho ông Phan Anh T số tiền 3.000 USD thông qua công ty TNHH Một thành viên thương mại dịch vụ tốc hành TC (địa chỉ: đường D, Phường Y2, quận B2). Đến ngày 30/4/2009 bà Ngọc A gửi về tiếp số tiền 37.000 USD thông qua Ngân hàng thương mại A1. Tổng số tiền bà Chernicki Ngọc A gửi về là 40.000 USD. Sau khi gửi tiền về, bà Ngọc A phát hiện ông T đứng tên sở hữu xe Honda Civic, bà Ngọc A yêu cầu trả lại xe nhưng ông T không trả, sau đó ông T đặt điều kiện là phải tổ chức lễ cưới giả để bà bảo lãnh ông T sang Hoa Kỳ thì ông T mới trả lại xe. Việc tổ chức lễ cưới giả này do ông T sắp xếp, khách mời toàn bộ là người của ông T. Thiệp mời đám cưới ghi cha mẹ cô dâu là Nguyễn Văn Th và bà Nguyễn Thị Thu X3 là giả vì cha mẹ của bà Ngọc A tên Nguyễn Văn Đ và bà Nguyễn Thị B1. Sau khi tổ chức đám cưới giả, ông T không trả xe cho bà Ngọc A. Đầu năm 2011 bà Ngọc A tố cáo ông T tại Cơ quan Công an Thành phố Hồ Chí Minh, tại đây ông T thừa nhận có nhận số tiền 40.000 USD của bà Chernicki Ngọc A và đồng ý trả cho bà Ngọc A ½ số tiền 40.000 USD. Nay bà Ngọc A yêu cầu ông Phan Anh T phải trả lại cho bà số tiền 40.000 USD, không yêu cầu trả lãi, trả một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Bị đơn ông Phan Anh T trình bày:

Ông T và bà Chernicki Ngọc A là vợ chồng chưa đăng ký kết hôn nhưng đã tổ chức đám cưới công khai vào ngày 01/7/2009 tại nhà hàng S, trước sự chứng kiến của họ hàng hai bên gia đình và đồng nghiệp. Để chuẩn bị cho việc tổ chức đám cưới bà Chernicki Ngọc A có gửi tiền về. Ông T mua chiếc xe Honda Civic biển số 63K-2718 bằng nguồn tiền của ông T. Ông T không đồng ý yêu cầu của bà Ngọc A vì ông T không có nhận tiền của bà Ngọc A để mua ô tô cho bà Ngọc A. Tại bản án dân sự sơ thẩm số 1445/2012/DS-ST ngày 21/9/2012, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: 

Áp dụng khoản 3 Điều 33; điểm c khoản 1 Điều 34, khoản 1 Điều 245, Điều 234 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung năm 2011; Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 về án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của bà Chernicki Ngọc A.

1. Buộc ông Phan Anh T có trách nhiệm trả cho bà Chernicki Ngọc A số tiền tương ứng với 40.000 USD là 832.000.000 đồng (tám trăm ba mươi hai triệu đồng) ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, thi hành tại cơ quan Thi hành án có thẩm quyền. Kể từ ngày bà Chernicki Ngọc A có đơn yêu cầu thi hành án nếu ông Phan Anh T không trả số tiền nêu trên thì hàng tháng ông T còn phải trả tiền lãi cho bà Chernicki Ngọc A theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

2. Duy trì Quyết định kê biên số 01/2011/QĐ-BPKCTT ngày 01/11/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang cho đến khi thi hành xong số tiền nêu trên thì quyết định này đương nhiên sẽ được xóa.

3. Giải tỏa tài khoản số 6900205129001 với số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) của ông Trương Vinh Q địa chỉ đường Mã, phường B, quận B1, Thành phố Hồ Chí Minh mở tại Ngân hàng N, chi nhánh Tiền Giang.

Án phí dân sự sơ thẩm: Ông T phải chịu là 36.960.000 đồng (ba mươi sáu triệu chín trăm sáu mươi nghìn đồng). Hoàn trả cho bà Chernicki Ngọc A 18.000.000 đồng (mười tám triệu đồng) theo biên lai số 09009 ngày 24/06/2011 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định pháp luật.

Ngày 01/10/2012, bị đơn ông Phan Anh T có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại bản án dân sự phúc thẩm số 156/2013/DSPT ngày 16/5/2013, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm. Sau khi xét xử phúc thẩm, ông T có đơn đề nghị giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 05/2017/DS-GĐT ngày 24/3/2017, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã quyết định: Chấp nhận kháng nghị Giám đốc thẩm của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 156/2013/DS-PT ngày 16/5/2013 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án dân sự “Tranh chấp đòi tài sản” giữa nguyên đơn là bà Chernicki Ngọc A với bị đơn là ông Phan Anh T. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định pháp luật.

Tại phiên tòa xét xử phúc thẩm lại vụ án, bị đơn ông Phan Anh T có người đại diện theo ủy quyền tham gia phiên tòa trình bày, ông T vẫn giữ nguyên kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; các đương sự tham gia tố tụng chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về kháng cáo của bị đơn ông Phan Anh T là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận, sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận một phần yêu cầu của bà Chernicki Ngọc A : Buộc ông T phải thanh toán giá trị còn lại của xe ô tô là 500.000.000 đồng cho bà A. Ông T đã thanh toán xong số tiền trên theo Biên bản thỏa thuận ngày 27/12/2013 và Hợp đồng mua bán xe ngày 27/12/2013.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Đơn kháng cáo của bị đơn ông Phan Anh T nộp trong thời hạn và đúng thủ tục theo quy định của pháp luật nên hợp lệ, được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét như sau:

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa, đủ cơ sở xác định: Ông Phan Anh T và bà Chernicki Ngọc A không phải là vợ chồng. Năm 2009 bà Chernicki Ngọc A đã gửi 40.000 USD cho ông Phan Anh T. Bà Anh xác định gửi số tiền trên để nhờ ông T mua hộ xe ô tô. Thực tế, số tiền bà A gửi về Việt Nam đã được ông T mua xe Honda Civic và đứng tên đăng ký xe. Mỗi khi về Việt Nam, bà A sử dụng chiếc xe ô tô này để làm phương tiện đi lại. Vì vậy, việc bà A đòi lại 40.000 USD là không có cơ sở chấp nhận vì số tiền này đã được ông T mua xe ô tô theo yêu cầu của bà A. Tòa án cấp sơ thẩm không buộc ông T thanh toán giá trị còn lại của chiếc xe cho bà A, mà buộc ông T trả cho bà Anh số tiền 40.000 USD tương đương 832.000.000 đồng là không hợp lý.

[2] Tại Công văn số 630/CTHA ngày 19/10/2015, Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh thông báo: Theo văn bản thỏa thuận giải quyết thi hành án ngày 27/12/2013 thì ông T đã thống nhất giao chiếc xe ô tô nêu trên, trị giá 500.000.000 đồng cho bà A để cấn trừ số tiền phải thi hành án; đồng thời ông T đã bàn giao chiếc xe cho ông Trần Vinh Q (người được bà A chỉ định) theo Hợp đồng mua bán xe cùng ngày 27/12/2013. Do đó, không cần thiết phải định giá chiếc xe này, mà buộc ông T phải thanh toán giá trị còn lại của xe ô tô là 500.000.000 đồng cho bà A là hợp lý, đảm bảo quyền và lợi ích của hai bên. Ông T đã thanh toán xong số tiền trên theo Biên bản thỏa thuận ngày 27/12/2013 và Hợp đồng mua bán xe ngày 27/12/2013 nêu trên.

[3] Chính vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm, thống nhất quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm, chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Phan Anh T; sửa bản án dân sự sơ thẩm theo như phân tích và nhận định nêu trên.

[4] Do sửa bản án sơ thẩm như trên nên cần phải điều chỉnh lại án phí dân sự sơ thẩm cho phù hợp: Bà Chernicki Ngọc A phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền 332.000.000 không được Tòa án chấp nhận, ông Phan Anh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền 500.000.000 đồng mà Tòa án buộc ông T phải trả cho bà Chernicki Ngọc A.

[5] Ông Phan Anh T không phải nộp án phí dân sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Chấp nhận kháng cáo của bị đơn ông Phan Anh T; sửa Bản án dân sự sơ thẩm: 1445/2012/DS-ST ngày 21 tháng 9 năm 2012 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh: Áp dụng khoản 3 Điều 33; điểm c khoản 1 Điều 34, khoản 1 Điều 245, Điều  234 Bộ luật Tố tụng dân sự sửa đổi bổ sung năm 2011; áp dụng Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 quy định về án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu của bà Chernicki Ngọc A.

1. Buộc ông Phan Anh T phải thanh toán giá trị còn lại của xe ô tô là 500.000.000đ (năm trăm triệu đồng) cho bà Chernicki Ngọc A. Ông T đã thanh toán xong số tiền trên theo Biên bản thỏa thuận ngày 27/12/2013 và Hợp đồng mua bán xe ngày 27/12/2013.

Hủy bỏ Quyết định kê biên số 01/2011/QĐ-BPKCTT ngày 01/11/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang do đã thi hành xong số tiền nêu trên.

Giải tỏa tài khoản số 6900205129001 với số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) của ông Trương Vinh Q địa chỉ đường Mã, phường B, quận B1, Thành phố Hồ Chí Minh mở tại Ngân hàng N, chi nhánh Tiền Giang.

2.Về án phí:

- Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Chernicki Ngọc A phải chịu 16.600.000đ (mười sáu triệu sáu trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm; nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 18.000.000 đồng (mười tám triệu đồng) bà A đã nộp theo biên lai số 09009 ngày 24/06/2011 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh; bà A được hoàn trả lại 1.400.000 đồng. Ông Phan Anh T phải chịu là 24.000.000đ (hai mươi bốn triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

- Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Phan Anh T không phải nộp; hoàn trả cho ông T 200.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp theo biên lai số 04227 ngày 03/10/2012 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án là ngày 31 tháng 7 năm 2017.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

818
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 167/2017/DS-PT ngày 31/07/2017 về tranh chấp đòi lại tài sản

Số hiệu:167/2017/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 31/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về