Bản án 166/2020/HS-ST ngày 24/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HD, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 166/2020/HS-ST NGÀY 24/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố HD, tỉnh Hải Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 184/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 159/2020/HSST- QĐ ngày 11 tháng 12 năm 2020, đối với bị cáo:

Phạm Xuân C, sinh năm 1979; Giới tính: Nam; ĐKHKTT và chỗ ở: số 5/1 đường Bến Xe, phường NT, thành phố HD, tỉnh Hải Dương; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông Phạm Xuân Th và bà Lê Thị S (đã chết); Gia đình có 6 anh chị em, bị cáo là con thứ sáu; Vợ: Chị Nguyễn Thu Th (đã ly hôn); Có 02 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2008;

Tiền án:

- Tại Bản án số 130/2016/HSST ngày 16/9/2016, Tòa án nhân dân thành phố HD xử phạt Phạm Xuân C 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (giá trị tài sản chiếm đoạt 8.320.000 đồng). C chấp hành xong hình phạt tù ngày 16/3/2017.

- Tại Bản án số 110/2018/HSST ngày 11/6/2018, Tòa án nhân dân thành phố HD xử phạt Phạm Xuân C 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. C chấp hành xong hình phạt tù ngày 05/01/2020.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại Quyết định số 05 ngày 24/7/2015, Công an phường TB, thành phố HD xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 750.000 đồng đối với C về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. C nộp tiền phạt ngày 27/7/2015.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 30/9/2020 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương theo Lệnh bắt bị can để tạm giam số 36/L-CQĐT ngày 24/9/2020 của Cơ quan Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố HD (có mặt tại phiên tòa).

* Bị hại: Chị Lưu Thị Hồng G, sinh năm 1995; Địa chỉ: Số 1/22 đường Thanh Bình, phường ThB, thành phố HD (có đơn xin xét xử vắng mặt).

* Người làm chứng: Anh Triệu Văn Đ, sinh năm 2001; Cư trú tại: Số 1/22 đường Thanh Bình, phường ThB, thành phố HD (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 30/7/2020, Phạm Xuân C đến nhà nghỉ BA ở số 1/22 đường Thanh Bình, phường ThB, thành phố HD thuê phòng 303 để nghỉ. Khoảng 19 giờ ngày 31/7/2020, C đi cầu thang bộ từ phòng 303 xuống lễ tân nhà nghỉ trả phòng để về nhà. Khi xuống đến hành lang tầng 2, nhìn thấy phòng 203 của nhà nghỉ cửa mở, bên trong phòng không có người, trên giường trong phòng có một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone7, màu đen, có ốp lưng màu vàng của chị Lưu Thị Hồng G, sinh năm 1995 ở 1/22 đường Thanh Bình, phường ThB, thành phố HD (là quản lý của nhà nghỉ), C nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại và vào phòng cầm chiếc điện thoại cho vào túi quần, đi xuống quầy lễ tân gặp anh Triệu Văn Đ, sinh năm 2001 ở xã Hòa An, huyện ChH, tỉnh Tuyên Quang (là nhân viên trực) nói với anh Đ ra ngoài vay tiền để trả tiền phòng. Sau đó, C đi xe taxi (không xác định được xe của hãng nào và lái xe là ai) để đi về nhà. Trên đường về, C lấy điện thoại vừa trộm cắp được ra kiểm tra thấy máy bị khóa màn hình không mở được. Nhận thấy hành vi trộm cắp tài sản của mình là vi phạm pháp luật nên ngày 01/8/2020, C đến Phòng Cảnh sát hình sự - Công an tỉnh Hải Dương tự thú, giao nộp chiếc điện thoại và trình bày toàn bộ hành vi phạm tội.

Tại Kết luận định giá tài sản số 73/KL-HĐĐG ngày 20/8/2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân thành phố HD kết luận: Giá trị của 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone7, dung lượng 32GB, model A1661 màu đen là 3.396.000 đồng; Phí, lệ phí làm lại 01 sim số 0365.294.078 là 30.000 đồng.

Về vật chứng: Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone7, dung lượng 32GB bên trong lắp sim số 0365.294.078 là tài sản của chị Lưu Thị Hồng G, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố HD đã trả lại cho chị Gấm.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Lưu Thị Hồng G đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường trách nhiệm dân sự.

Tại Cáo trạng số 174/CT-VKSTPHD ngày 27/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD, tỉnh Hải Dương truy tố Phạm Xuân C về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Chị Lưu Thị Hồng G có đơn xin xét xử vắng mặt và đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Xuân C phạm tội “Trộm cắp tài sản” - Về hình phạt chính: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s, r, h khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Xuân C từ 25 tháng tù đến 27 tháng tù. Thời hạn tính ngày 30/9/2020.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

- Về trách nhiệm dân sự: Không phải xem xét.

- Về vật chứng: Không phải xem xét.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Lời khai của bị cáo Phạm Xuân C tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, bị hại và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ ngày 31/7/2020, tại phòng 203 nhà nghỉ BA ở số 1/22 đường Thanh Bình, phường ThB, thành phố HD, lợi dụng sơ hở, Phạm Xuân C đã trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động Iphone7 màu đen bên trong có lắp sim số 0365.294.078 của chị Lưu Thị Hồng G là chủ nhà nghỉ. Tổng trị giá tài sản bị chiếm đoạt là 3.396.000 đồng. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật hình sự nhưng vẫn cố ý lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác. Do vậy, hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tại Bản án số 110/2018/HSST ngày 11/6/2018, Tòa án nhân dân thành phố HD xét xử bị cáo Phạm Xuân C 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và áp dụng tình tiết tặng nặng “Tái phạm”, bị cáo chưa được xóa án tích nay lại cố ý thực hiện hành vi trộm cắp sản nên hành vi của bị cáo cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung tăng nặng “Tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Do đó, quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2]. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình trật tự, an ninh tại địa phương. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, biết tôn trọng và chấp hành pháp luật.

[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, bị cáo Phạm Xuân C đã tự thú, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, giá trị tài sản bị cáo trộm cắp là 3.396.000đ nhưng do bị cáo bị xét xử với tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm”, bị hại có đơn đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bố bị cáo là ông Phạm Xuân Th được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhì nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, r, h khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

[4]. Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Chị Lưu Thị Hồng G đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường trách nhiệm dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về vật chứng:

- Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone7, dung lượng 32GB, bên trong lắp sim số 0365.294.078 là tài sản của chị Lưu Thị Hồng G, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố HD đã trả lại cho chị Gấm là phù hợp pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí: Bị cáo bị kết án có tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8]. Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố HD, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố HD, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s, r, h khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đối với đối với bị cáo Phạm Xuân C.

[1]. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Xuân C phạm tội "Trộm cắp tài sản".

[2]. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Xuân C 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/9/2020.

[3]. Về án phí: Bị cáo Phạm Xuân C phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[4]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 24/12/2020), bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 166/2020/HS-ST ngày 24/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:166/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về