Bản án 166/2020/HS-ST ngày 21/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 166/2020/HS-ST NGÀY 21/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 21 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 155/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa ra xét xử số 157/2020/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2020, đối với bị cáo:

Quàng Văn S, sinh năm 1986; đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Bản N, xã C, huyện T, tỉnh S; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 6/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên cha: Quàng Văn C, sinh năm 1965; họ tên mẹ: Quàng Thị A, sinh năm 1964; gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất; họ tên vợ: Lò Thị N, sinh năm 1994; bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 49/2011/HSST ngày 29/3/2011 của Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh S La, xử phạt Quàng Văn S 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/09/2011, đã xóa án tích.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 22/6/2020, tạm giữ từ ngày 23/06/2020 đến ngày 02/07/2020 chuyển tạm giam. Hiện đang bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Quàng Văn C, sinh ngày 12/02/2003; nơi cư trú: Bản P, xã N, huyện S, tỉnh S, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 23 giờ 45 phút ngày 22/6/2020, tổ công tác Y20/141 Công an thành phố Hà Nội phối hợp với Công an xã Yên Thường, Gia Lâm, Hà Nội làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực Trạm kiểm dịch đường Đặng Phúc Thông, Dốc Lã, Yên Thường, Gia Lâm, Hà Nội, phát hiện Đỗ Đức H, sinh năm 1996; trú tại: xã X, huyện C, tỉnh T, điều khiển xe ôtô taxi BKS: 19A-257.53 trên xe chở Quàng Văn C, Quàng Văn L, sinh năm 1994; trú tại: Đ, huyện S, tỉnh S và Quàng Văn S, có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma tuý. Qua kiểm tra, phát hiện S có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã thu giữ vật chứng và đưa các đối tượng đến Công an xã Yên Thường lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Quàng Văn S.

Vật chứng thu giữ, gồm:

- Thu giữ của Quàng Văn S: 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng; 01 điện thoại di động Oppo màu đỏ - đen, đã qua sử dụng bên trong có lắp số sim liên lạc:

- Thu giữ của Đỗ Đức H: 01 ô tô nhãn hiệu Huyndai Grand I10 màu bạc, BKS 19A-257.53, số khung: S1DBKN030722, số máy: GULAKM178807, thân xe có dán logo nhãn hiệu Taxi123 màu đỏ; 01 giấy phép lái xe; 01 giấy chứng nhận kiểm định xe ô tô số 2351467; 01 đăng ký xe ô tô (bản phôtô); 01 bảo hiểm xe ô tô đều mang tên Đỗ Đức H và 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu Sam Sung màu đen bên trong lắp số sim liên lạc 0346758334:

- Thu giữ của Quàng Văn C: 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu Vivo màu đỏ - đen bên trong lắp số sim liên lạc: 0898208062.

Tại Kết luận giám định số 5100/KLGĐ-PC09, ngày 01/07/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy bạc màu trắng là ma tuý loại Heroine, khối lượng 0,170 gam”.

Tại cơ quan điều tra, Quàng Văn S, Quàng Văn L, Quàng Văn C và Đỗ Đức H khai nhận: Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 22/6/2020, S rủ L và C đi lên Từ S, Bắc Ninh chơi thăm bạn, L và C đồng ý, sau đó cùng thuê xe Taxi đi từ Long Biên, Hà Nội. Khi đến Từ S, Bắc Ninh, S, L và C xuống xe đi bộ, sau đó S bảo L và C đứng đợi còn S đi bộ ven đường, S gặp và mua 01 gói ma túy loại Heroine với giá 100.000 đồng của một người đàn ông không rõ nhân thân. Sau khi mua được ma túy, S cầm trong lòng bàn tay phải và đi đến chỗ L và C đứng đợi, S thuê xe Taxi nhãn hiệu Huyndai Grand I10 màu bạc, BKS 19A-257.53 của anh Đỗ Đức H. Khi lên xe ô tô L ngồi ghế phụ cạnh ghế lái, S ngồi đằng sau dưới ghế phụ còn C ngồi đăng sau dưới ghế lái. Khi đi đến khu vực Dốc Lã, Yên Thường thì bị cơ quan công an kiểm tra. Do sợ bị phát hiện nên S thả gói ma tuý vừa mua được xuống sàn xe cạnh chân bên phải của S, sau đó bị Công an phát hiện và thu giữ tang vật.

Đối với đối tượng đã bán ma tuý cho S do không xác định được nhân thân nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đối với anh Đỗ Đức H, anh Quàng Văn L và anh Quàng Văn C, quá trình điều tra xác định anh Đoàn, anh L và anh C không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo S. Do vậy, cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý đối với anh Đoàn, anh L và anh C.

Đối với chiếc xe ôtô nhãn hiệu Huyndai Grand I10 màu bạc, BKS 19A- 257.53; số khung: S1DBKN030722, số máy: GULAKM178807. Qua xác minh xác định được chủ sở hữu chiếc xe ôtô trên là của anh Đỗ Đức H. Bản thân anh Đoàn không biết S cất giấu ma túy trong người. Về chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung màu đen thu giữ của Đỗ Đức H không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo. Ngày 30/6/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Gia Lâm đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả chiếc xe ô tô cùng giấy tờ và điện thoại cho anh Đoàn.

Tại bản Cáo trạng số 156/CT-VKSGL ngày 01 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo Quàng Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm tham gia phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng; sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Quàng Văn S từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 22/6/2020; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ số ma túy thu giữ của bị cáo; hoàn trả bị cáo Quàng Văn S 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đỏ - đen, đã qua sử dụng, bên trong có lắp sim liên lạc; hoàn trả anh Quàng Văn C 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu Vivo màu đỏ - đen, đã qua sử dụng, bên trong có lắp sim liên lạc.

Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm và Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Quàng Văn C vắng mặt tại phiên tòa nhưng trước đó đã có lời khai đầy đủ tại Cơ quan điều tra. Xét thấy việc vắng mặt của anh Quàng Văn C không gây trở ngại cho việc xét xử. Theo quy định tại khoản 1 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh C.

[3] Về hành vi phạm tội và tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 23 giờ 45 phút ngày 22/6/2020, tại khu vực Trạm kiểm dịch, đường Đặng Phúc Thông, Dốc Lã, Yên Thường, Gia Lâm, Hà Nội, bị cáo Quàng Văn S đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy Heroine có khối lượng 0,170 gam, mục đích để sử dụng thì bị cơ quan Công an kiểm tra bắt giữ cùng vật chứng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm truy tố bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo:

[4.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Heroine là chất ma tuý rất độc hại, tàn phá và huỷ hoại sức khoẻ con người, là một trong những nguyên nhân chính phát sinh ra các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác trong đời sống xã hội. Trong những năm qua, tội phạm về ma tuý trên địa bàn thành phố Hà Nội diễn biến rất phức tạp, Nhà nước, các cấp chính quyền và Đoàn thể rất quan tâm và nỗ lực tuyên truyền, giáo dục về tác hại của ma tuý, kêu gọi toàn dân tích cực tham gia phòng chống tệ nạn về ma tuý và tội phạm may tuý. Bị cáo nhận thức được tác hại và hậu quả do ma tuý gây ra nhưng không tích cực phòng chống mà còn tàng trữ để sử dụng nên cần thiết phải xử lý nghiêm minh để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và phòng ngừa chung; góp phần đấu tranh phòng chống tệ nạn và các tội phạm về ma tuý trong đời sống xã hội.

[4.2] Về nhân thân bị cáo: Tại bản án số 49/2011/HSST ngày 29/3/2011 của Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh S La xử phạt Quàng Văn S 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/09/2011, đã xóa án tích. Như vậy, thể hiện bị cáo có nhân thân xấu, đã được các cơ quan pháp luật giáo dục, cải tạo, khi trở về nơi cư trú không cố gắng rèn luyện bản thân, hòa nhập cộng đồng, mà lại tàng trữ ma túy để sử dụng.

[4.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải. Như vậy, bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4.4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tổng hợp nhận định ở trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian bằng việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn để đảm bảo việc răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Gia Lâm tại phiên toà là phù hợp.

[4.5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên toà thể hiện: Bị cáo là người nghiện ma túy, không có việc làm, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Đối với số ma túy thu giữ của bị cáo là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

H trả cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đỏ - đen, đã qua sử dụng, bên trong có lắp sim liên lạc thu giữ của bị cáo do không liên quan đến hành vi phạm tội.

H trả cho anh Quàng Văn C 01 chiếc điện thoại di dộng nhãn hiệu Vivo màu đỏ - đen đã qua sử dụng, bên trong có lắp sim liên lạc thu giữ của anh Quàng Văn C do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm đã xử lý các vật chứng khác theo thẩm quyền, nay không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phạm tội phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người tham gia tố tụng khác được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8] Về các nội dung khác:

Đối với đối tượng bán ma túy cho S, do không xác định được nhân thân, Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra xác minh, xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với anh Đỗ Đức H, anh Quàng Văn L và anh Quàng Văn C, quá trình điều tra anh Đoàn, anh L và anh C không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của S, Cơ quan điều tra không đề nghị xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Quàng Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Quàng Văn S 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 22/6/2020.

2.2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

3.1. Tịch thu, tiêu huỷ ma túy loại Heroine có khối lượng 0,160 gam (đã trích mẫu để giám định 0,010 gam) thu giữ của bị cáo Quàng Văn S, đựng trong 01 gói niêm phong có chữ ký của Giám định viên, cán bộ Công an xã Yên Thường và của Quàng Văn S, do Phòng PC09-Công an thành phố Hà Nội hoàn lại sau giám định.

3.2. H trả cho bị cáo Quàng Văn S 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đỏ - đen, đã qua sử dụng, bên trong có lắp sim thu giữ của bị cáo.

3.3. H trả cho anh Quàng Văn C 01 chiếc điện thoại di dộng nhãn hiệu Vivo màu đỏ - đen, đã qua sử dụng, bên trong có lắp sim thu giữ của anh Quàng Văn C.

(tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm ngày 07/10/2020) 4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo.

Bị cáo Quàng Văn S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án Anh Quàng Văn C có quyền kháng cáo về những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết theo đúng quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 166/2020/HS-ST ngày 21/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:166/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về