Bản án 166/2020/HS-ST ngày 02/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 166/2020/HS-ST NGÀY 02/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Vào ngày 02 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Tân Phú xét sử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 153/2020/TLST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 195/2020/QĐXXST- HS ngày 17 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Quốc T, sinh ngày 23/10/1993; Tại Bà Rịa Vũng Tàu; Thường trú:

176/10/37 Trương Công Đ, phường 3, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu; Nghề nghiệp: Kinh doanh tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: Thiên Chúa; Quốc tịch: Việt Nam, Con ông Nguyễn Chí D và bà Huỳnh Thị Ngọc A, Vợ Nguyễn Thị Thùy T (đã ly hôn; Có 01 con sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 07/3/2020; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 07/3/2020, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy kết hợp với Công an phường S tiến hành kiểm tra hành chính căn hộ D6.20 Chung cư R 36 B, phường S, quận Tân Phú do ông Lê Quốc C làm chủ sở hữu và cho Nguyễn Văn Th thuê ở; Tại thời điểm kiểm tra, trong căn hộ có 12 người đang lưu trú. Tại phòng ngủ có 08 đối tượng (04 nam, 04 nữ) có biểu hiện sử dụng trái phép chất ma túy gồm Nguyễn Quốc T, Nguyễn Mạnh H, Lê Hoài C, Trương Hữu N, Mó R, Đinh Ngọc Thúy V (tên thật là Nguyễn Ngọc Thúy A), Đặng Hạnh N, Vy Khánh V.

Qua kiểm tra bắt quả tang Nguyễn Quốc T có hành vi cất dấu trong túi quần phía trước bên trái mà T đang mặc có 01 gói nylon chứa 09 viên nén hình tròn màu xanh (m1), 01 gói nylon chứa 10 viên nén hình chữ nhật màu xanh (m2), 01 gói nylon chứa tinh thể không màu (m3). Kiểm tra trong túi đeo chéo Tuấn đang đeo trước ngực có 01 gói nylon bên trong có 01 viên nén hình tròn màu xanh (m4), 01 gói nylon chứa 10 viên nén hình chữ nhật màu cam (m5), 02 gói nylon chứa tinh thể không màu (m6). Đồng thời còn thu giữ trong phòng nơi Tuấn đang ở có 01 đĩa sứ màu trắng hình tròn bên trên chứa chất bột màu trắng (m7).

Quá trình điều tra đã xác định:

Đặng Nữ Ngọc H và Nguyễn Minh Th có quan hệ tình cảm với nhau, từ ngày 29/02/2020, Th thuê căn hộ D6.20 (gồm 02 phòng) ở chung cư R, 36 B, phường S do ông Lê Quốc C làm chủ. Sau đó, Th sử dụng 01 phòng để thiết kế cách ly, chuẩn bị loa, đèn chiếu cho khách đến sử dụng ma túy tính tiền giờ; Còn 01 phòng Th cho Nguyễn Văn D, Văn Đức S, Nguyễn Văn B là bạn đồng hương ở tạm trong thời gian tìm việc làm.

Khoảng 02 giờ 00 phút ngày 07/3/2020, có người phụ nữ tên Ngh (bạn của H, chưa rõ lai lịch) gọi điện thoại cho H nhờ giới thiệu phòng để khách đến sử dụng ma túy nên H đã giới thiệu Ngh đến thuê căn hộ D6.20. Đồng thời thông qua mạng xã hội Zalo, Nguyễn Ngọc Thúy A, Đặng Hạnh N, Vy Khánh V, Mó R là những nhân viên PR được Nghi rủ đến phục vụ người sử dụng ma túy tại căn hộ D6.20 với giá 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng, tiền công sẽ do Ngh trả cộng thêm tiền bồi dưỡng thêm của khách. Thúy A, Mó R cùng đi taxi với Ngh đến căn hộ, còn V, N đi Grab. Khi A, N, V, Mó R đến thì được Nguyễn Văn D ra mở cửa và chỉ vào căn phòng được thiết kế cách âm, có loa nghe nhạc, đèn chiếu.

Khoảng 03 đến 04 giờ sáng cùng ngày, Nguyễn Quốc T, Lê Hoài C, Nguyễn Mạnh H, Trương Hữu N đến phòng; lúc này T, C, H, N sử dụng ma túy khay, thuốc lắc trong đĩa sứ để sẵn trong phòng (ma túy do ai chuẩn bị không xác định được); A, N, V, Mó R ngồi nói chuyện nghe nhạc nhưng không sử dụng ma túy.

Khoảng 05 giờ ngày 07/3/2020, H mang 02 bình shisa lên phòng sau đó ở lại phòng khách của căn hộ. Đến khoảng 09 giờ cùng ngày thì Công an đến kiểm tra phát hiện ma túy trên đĩa sứ cùng số viên nén, tinh thể không màu trong túi quần và giỏ xách của Nguyễn Quốc T nên đã thu giữ, niêm phong và đưa các đối tượng về làm việc.

N, H khai được Nghi rủ đến; C được N rủ, T được H rủ đến căn hộ trên để sử dụng ma túy, ma túy để sẵn trên đĩa nên đã sử dụng nhưng cả bọn không biết của ai và không có ai yêu cầu trả tiền; do được mời nên tất cả không biết giá thuê phòng và thuê trong bao lâu.

Ngoài ra, Nguyễn Quốc T còn khai nhận nguồn gốc số ma túy thu trong túi quần và trong giỏ xách đeo chéo trước ngực là do T mua của một thanh niên tên Nam (không rõ lai lịch) với giá 6.000.000 đồng gồm thuốc lắc và ma túy đá. Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 07/3/2020, Nam đến trước khu vực căn hộ gọi điện thoại cho T xuống giao ma túy. Sau đó, Tuấn cất ma túy vào túi quần phía trước bên trái và túi đeo chéo trước ngực rồi quay lại căn hộ D6.20, lúc này mọi người ngủ nên T lấy ma túy đá bỏ vào nỏ sử dụng thì Công an đến bắt quả tang. Tuấn mua ma túy là để đem về quê sử dụng, đây là lần thứ hai T mua ma túy của Nam.

Tại Kết luận giám định số 427/KLGĐ-H ngày 13/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

Gói 1:

+ 09 viên nén hình tròn màu xanh được ký hiệu mẫu m1 cần giám định đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 4,6924g, loại Ketamine.

+ 10 viên nén hình chữ nhật màu xanh được ký hiệu mẫu m2 cần giám định đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 6,0569g, loại Methamphetamine, Ketamine.

+ Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m3 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,1503g, loại Ketamine.

Gói 2:

+ 01 viên nén hình tròn màu xanh được ký hiệu mẫu m4 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,4118g, loại Methamphetamine, MDMA, Ketamine.

+ 10 viên nén hình chữ nhật màu cam được ký hiệu mẫu m5 cần giám định có tổng khối lượng 3,7678g, không tìm thấy ma túy.

+ Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m6 cần giám định đều là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 7,1004g, loại Methamphetamine.

Gói 3: Bột màu trắng được ký hiệu mẫu m7 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,9441g, loại Heroin.

Vật chứng thu giữ (Theo Phiếu nhập kho vật chứng số 89/PNK ngày 14/4/2020) gồm:

+ 03 gói niêm phong số 427 bên ngoài có chữ ký giám định viên Nguyễn Mạnh Cường và Điều tra viên Lê Duy Hòa.

+ 01 điện thoại di động hiệu Sam sung màu xanh, số máy 357966104365326.

+ 01 điện thoại di động hiệu Sam sung màu vàng, số máy 355079080596013.

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh, số máy 357743108101506.

+ 01 túi đeo chéo bằng da màu đen (cũ đã qua sử dụng).

+ 01 đĩa sứ màu trắng hình tròn.

+ 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá.

Tại Cáo trạng số 149/CT-VKSQTP ngày 16/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân quận Tân Phú để xét xử bị cáo Nguyễn Quốc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ;

Sau khi nghe lời khai nhận tội của bị cáo;

Sau khi nghe ý kiến tranh luận và đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú về mức án đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Khoảng 09 giờ ngày 07/3/2020, tại căn hộ D6.20 chung cư R, số 36 B, phường S, quận Tân Phú, Nguyễn Quốc T bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ 19,4118 gam ma túy ở thể rắn gồm các loại Methamphetamine, Ketamine, MDMA nhằm mục đích sử dụng.

Đối với số ma túy ở thể rắn được ký hiệu m7, có khối lượng 1,9441 gam, loại Heroine chưa xác định được là của ai nên Cơ quan điều tra đã tách vụ án xử lý riêng.

Đối với đối tượng tên Nam và tên Ngh hiện chưa rõ nhân thân lai lịch nên chưa đủ cở sở để xử lý Đối với Nguyễn Minh Th đã đi khỏi địa phương nên Cơ quan điều tra chưa lấy được lời khai để xử lý về hành vi Chứa chấp việc sử sụng trái phép chất chất ma túy, hiện Cơ quan điều tra đang truy tìm và đã tách vụ án xử lý riêng.

Đối với Nguyễn Mạnh H, Lê Hoài C, Trương Hữu N, Đặng Nữ Ngọc H có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy đã bị Công an quận Tân Phú đã ra Quyết định xử phạt hành chính.

Đối với Đặng Nữ Ngọc H biết Nguyễn Minh Th thuê căn hộ D6-20 để cho khách đến sử dụng ma túy và H có giới thiệu, dẫn khách thuê phòng của Th nhưng H không hưởng lợi gì và hiện nay H đã đi khỏi nơi ở nên Cơ quan điều tra chưa làm việc được, đồng thời Cơ quan điều tra chưa lấy được lời khai của Th nên chưa đủ căn cứ xử lý đối với H.

Đối với ông Lê Quốc C không biết Nguyễn Minh Th thuê căn hộ để làm nơi chứa chấp việc sử sụng trái phép chất chất ma túy nên Cơ quan điều tra không xử lý.

Đối với Nguyễn Văn D, Văn Đức S, Nguyễn Văn B được Th cho ở nhờ, không liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra không xử lý.

Đối với Nguyễn Ngọc Thúy A, Đặng Hạnh N, Vy Khánh V, Mó R là những nhân viên PR được Ngh rủ đi đến căn hộ D6.20 để phục vụ, nói chuyện với khách, không sử dụng ma túy nên Cơ quan điều tra không xử lý.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với tang vật chứng thu giữ, phù hợp với lời khai của nhân chứng và các chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận do muốn sử dụng ma túy nên bị cáo đã mua 19,4118 gam ma túy ở thể rắn, gồm các loại Methamphetamine, Ketamine, MDMA, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, với tình tiết định khung“Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm e đến điểm m khoản này” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Do đó, cáo trạng đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy. Bản thân bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn tàng trữ để sử dụng đã thể hiện ý thức xem thường pháp luật.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải có mức án tương xứng, mới có tác dụng răn đe giáo dục và đảm bảo công tác phòng ngừa chung trong xã hội.

[3] Về hình phạt bổ sung:

Đây là dạng tội, ngoài hình phạt chính còn có thể áp dụng hình phạt tiền bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự nên Hội đồng xét xử phạt bổ sung bị cáo số tiền 5.000.000 đồng.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chưa có tiền án tiền sự; năm 2014 được Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố Vũng Tàu tặng giấy khen do có thành tích xuất sắc trong đấu tranh, trấn áp tội phạm nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm cho bị cáo một phần hình phạt lẽ ra bị cáo phải chịu.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[5] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự thì xử lý như sau:

+ Đối với 03 (ba) gói niêm phong số 427 bên ngoài có chữ ký giám định viên Nguyễn Mạnh Cường và Điều tra viên Lê Duy Hòa, là là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

+ Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Sam sung màu xanh, số máy 357966104365326, T sử dụng để liên lạc mua ma túy nên cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

+ Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Sam sung màu vàng, số máy 355079080596013 và 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh, số máy 357743108101506, T sử dụng để liên lạc cá nhân, không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo.

+ Đối với 01 (một) túi đeo chéo bằng da màu đen (cũ đã qua sử dụng) T sử dụng để đựng ma túy, là vật không có giá trị nên tịch thu, tiêu hủy.

+ Đối với 01 (một) đĩa sứ màu trắng hình tròn và 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá thu tại phòng D6.20, là vật không có giá trị nên tịch thu, tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc T mức án từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm 06 tháng tù, là có cơ sở chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm n khỏan 2, khoản 5 Điều 249; Điều 38; Điều 47; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ vào Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Căn cứ vào điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc T 05 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 07/3/2020.

Phạt bổ sung bị cáo số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng sung vào ngân sách nhà nước.

Về xử lý vật chứng: (Tình trạng vật chứng theo Phiếu nhập kho vật chứng số 89/PNK ngày 14/4/2020 của Công an quận Tân Phú).

+ Tịch thu, tiêu hủy 03 (ba) gói niêm phong số 427 bên ngoài có chữ ký giám định viên Nguyễn Mạnh Cường và Điều tra viên Lê Duy Hòa.

+ Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Sam sung màu xanh, số máy 357966104365326.

+ Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động hiệu Sam sung màu vàng, số máy 355079080596013 và 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh, số máy 357743108101506.

+ Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) túi đeo chéo bằng da màu đen (cũ đã qua sử dụng); 01 (một) đĩa sứ màu trắng hình tròn và 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá.

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 166/2020/HS-ST ngày 02/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:166/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về