Bản án 166/2019/HNGĐ-ST ngày 28/02/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 BẢN ÁN 166/2019/HNGĐ-ST NGÀY 28/02/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 28 tháng 02 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 449/2015/TLST-HNGĐ, ngày 29 tháng 10 năm 2015 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 394/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 01 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Đinh Thị Thúy L, sinh năm 1977 (vắng mặt) Địa chỉ thường trú: Đường M, Phường P, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Li Jun Y, sinh năm 1975 (vắng mặt) Quốc tịch: Trung Quốc Địa chỉ: Đường Q, thôn G, làng B, huyện P, tỉnh H, Trung Quốc. Bà Đinh Thị Thúy L đã có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 08/10/2015 và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn là bà Đinh Thị Thúy L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Li Jun Y kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 580, quyển số IV ngày 13 tháng 9 năm 2007. Sau khi kết hôn, ông Li Jun Y trở về Trung Quốc sinh sống và làm việc. Thời gian đầu, bà và ông Li Jun Y vẫn thường xuyên liên lạc với nhau nhưng vì xa cách địa lý và qua một thời gian không gặp nhau, hai bên đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, không hòa hợp về tính cách, ông Li Jun Y cố tình lẩn tránh và không chủ động liên lạc với bà. Bà và ông Li Jun Y đã sống ly thân từ năm 2008 đến nay. Nhận thấy hai bên không còn tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được, bà có nguyện vọng được ly hôn với ông Li Jun Y để ổn định cuộc sống.

Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Không có. Vì bận việc, bà yêu cầu được vắng mặt cho đến khi kết thúc vụ án.

Bị đơn là ông Li Jun Y, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo ngày giờ và địa điểm mở phiên họp hòa giải, phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án thông qua thủ tục ủy thác tư pháp đến Cơ quan có thẩm quyền của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa theo địa chỉ của bị đơn do nguyên đơn cung cấp. Đồng thời, yêu cầu Li Jun Y có văn bản gửi Tòa án trình bày ý kiến về việc bà Đinh Thị Thúy L khởi kiện yêu cầu ly hôn (theo văn bản ủy thác tư pháp số 52/TTTPHNGĐ-TA ngày 18/01/2016 (lần 1) và số 77/UTTPDS-TA30 ngày 26/01/2018 (lần 2)). Bộ Tư pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có công văn đề nghị Cơ quan có thẩm quyền của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thực hiện các công việc cần thiết để thực hiện ủy thác tư pháp theo quy định. Đến ngày mở phiên tòa như đã định tại thông báo gửi đương sự, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không nhận được văn bản thông báo về kết quả tống đạt cũng như lời khai, tài liệu, chứng cứ của đương sự ở nước ngoài và bị đơn vắng mặt, không có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; Tòa án đã có văn bản đề nghị Bộ Tư pháp thông báo về việc thực hiện tống đạt văn bản tố tụng của Tòa án cho ông Li Jun Y (Công văn số 6742/TATP-TGĐVNCTN ngày 02/11/2018) nhưng đến nay vẫn không có kết quả. Để đảm bảo việc xét xử theo đúng hạn luật định và bảo đảm quyền lợi của đương sự khác, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn và bị đơn vắng mặt, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về vụ án: Về tố tụng, trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo trình tự tố tụng của Bộ luật tố tụng dân sự quy định về địa vị tố tụng và đảm bảo quyền lợi cho các đương sự. Về nội dung, Kiểm sát viên phân tích yêu cầu của nguyên đơn xin ly hôn bị đơn là phù hợp và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Xét yêu cầu của nguyên đơn Đinh Thị Thúy L, Hội đồng xét xử nhận thấy bà L và ông Li Jun Y kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ cấp giấy chứng nhận kết hôn. Vì vậy căn cứ vào Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đây là hôn nhân hợp pháp, khi một trong các bên có yêu cầu ly hôn, Tòa án xem xét, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

Bị đơn Li Jun Y hiện đang cư trú tại nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35 và khoản 1 Điều 37 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về việc xét xử vắng mặt đương sự trong vụ án:

Nguyên đơn có đơn xin giải quyết vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, yêu cầu cung cấp bản khai, thông báo ngày, giờ, địa điểm xét xử nhưng đến thời điểm xét xử Tòa án vẫn không nhận được phản hồi của bị đơn. Vì vậy căn cứ quy định tại Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; khoản 5 Điều 477 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[3] Xét yêu cầu của bà Đinh Thị Thúy L yêu cầu ly hôn ông Li Jun Y, Hội đồng xét xử xét thấy: Qua lời trình bày của bà L (bà L cam kết chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời khai của bà) thì bà và ông Li Jun Y chung sống không hạnh phúc. Từ khi kết hôn cho đến nay, bà L và ông Li Jun Y không có quá trình chung sống lâu dài, do khoảng cách địa lý nên tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, hai bên chưa có sự gắn kết sâu đậm về tình cảm vợ chồng. Bà L và ông Li Jun Y đã không còn chung sống với nhau từ năm 2008 đến nay. Hiện nay bà L và ông Li Jun Y đang sinh sống ở hai nước khác nhau nên khả năng đoàn tụ không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, bà L yêu cầu ly hôn với ông Li Jun Y là phù hợp, Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho bà L ly hôn với ông Li Jun Y là phù hợp với thực tế nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về con chung, tài sản chung và nghĩa vụ dân sự chung: Bà Đinh Thị Thúy L khai không có, Tòa án không xem xét.

[5] Về án phí hôn nhân sơ thẩm là 200.000 đồng, bà Đinh Thị Thúy L chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, khoản 1 Điều 37, Điều 147, Điều 227, Điều 228, khoản 5 Điều 477, khoản 3 Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 121 và Điều 127 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27 tháng 02 năm 2009 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của bà Đinh Thị Thúy L.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Đinh Thị Thúy L được ly hôn với ông Li Jun Y.

Giấy chứng nhận kết hôn số 580, Quyển số IV ngày 13/9/2007 do Ủy ban nhân dân thành phố Cần Thơ cấp cho bà Đinh Thị Thúy L và ông Li Jun Y không còn giá trị pháp lý.

1.2. Về con chung, về tài sản chung và nghĩa vụ dân sự chung: Bà Đinh Thị Thúy L khai không có, Tòa không xét.

2. Về án phí hôn nhân sơ thẩm là 200.000 đồng, bà Đinh Thị Thúy L chịu nhưng được khấu trừ vào số tiền 200.000 đồng mà bà L đã đóng tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí số AG/2010/09463 ngày 23/10/2015 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Bà L đã nộp đủ tiền án phí.

3. Bà Đinh Thị Thúy L được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án. Ông Li Jun Y được quyền kháng cáo trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày tuyên án. Viện kiểm sát được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 166/2019/HNGĐ-ST ngày 28/02/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:166/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:28/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về