TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
BẢN ÁN 166/2018/HS-ST NGÀY 19/09/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 19 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 158/2018/TLST-HS ngày 07 tháng 8 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 168/2018/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2018, đôi vơi các bị cáo:
1. Biện Văn K, sinh năm 1989, tại tỉnh Thanh Hóa; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 32 đường C, phường R, TP.M, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nơi ở khi bị bắt: Như trên; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 4/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Biện Văn Đ và bà Nguyễn Thị A; tiền án: Bản án số 41/2013/HSST ngày 28-5-2013, Tòa án nhân dân Tp.Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 29-4-2016; tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam ngày 06-6-2018, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Vũng Tàu. (Có mặt)
2. Nguyễn Quang T, sinh năm 1988, tại tỉnh Hải Dương; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 22 đường B, phường D, TP.M, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nơi ở khi bị bắt: Như trên; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Nguyễn Văn X và bà Nguyễn Thị L; tiền án: Bản án số 161/2015/HSST ngày 01-9-2015, Tòa án nhân dân TP.Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu xử phạt 03 năm tù về tội “ Cố ý gây thương tích”, chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 14-12-2017; tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam ngày 06-6-2018, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Vũng Tàu. (Có mặt)
Bị hại: Chị Đỗ Phương T, sinh năm: 1999, địa chỉ: 8 đường H, phường Rạ, thành phố M, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. (Có đơn xin xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ ngày 07-3-2018, bị cáo Biện Văn K và bị cáo Nguyễn Quang T rủ nhau đi nhậu, bị cáo K chở bị cáo T trên chiếc xe mô tô hiệu Nouvo màu đỏ trắng (không rõ biển số) do bị cáo T mượn của một người tên là Hà (không rõ lai lịch), khi đi ngang qua nhà số 115 Hải Thượng Lãn Ông, phường Rạch Dừa, TP.Vũng Tàu thấy chị Đỗ Phương T đang ngồi trên xe mô tô dựng bên lề đường và sử dụng điện thoại. Lúc này, bị cáo T bàn với K là bị cáo T sẽ đi bộ tới giật chiếc ĐTDĐ của chị T, còn bị cáo K ngồi trên xe đợi sẵn để tẩu thoát. Sau đó, bị cáo K dừng xe phía trước, cách chỗ chị T ngồi khoảng 20m, còn bị cáo T đi bộ quay lại giật chiếc ĐTDĐ Iphone 5 màu trắng mà chị T đang cầm trên tay rồi nhanh chóng chạy lên xe mà bị cáo K đã chờ sẵn. Lúc này, chị T phóng xe máy đuổi theo truy hô và dùng chân đạp vào xe của bị cáo K và bị cáo T làm xe máy bị đổ nhưng bị cáo K và bị cáo T vẫn dựng xe lên chạy thoát. Sau khi chiếm đoạt được chiếc ĐTDĐ của chị T, bị cáo K và bị cáo T mang chiếc ĐTDĐ ra xem thì phát hiện chiếc điện thoại bị khóa bằng mật khẩu không mở máy được, bị cáo K và bị cáo T nghĩ là không bán được nên bị cáo K đã mang vứt chiếc ĐTDĐ trên xuống biển tại khu vực hẻm 229 đường 30/4, phường Rạch Dừa, TP.Vũng Tàu.
Chị T phát hiện trong 2 người cướp giật chiếc ĐTDĐ của chị có 01 người là bị cáo K (do bị cáo K thường xuyên đến xóm nhà của chị T chơi) nên đã báo Cơ quan Công an. Sau khi bị bắt giữ, bị cáo K và bị cáo T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 92/BB-PTCKH ngày 21/5/2018 của Hội đồng định giá trong Tố tụng hình sự thuộc UBND TP.Vũng Tàu xác định chiếc ĐTDĐ của chị Đỗ Phương T có giá trị là 2.150.000đồng.
Về trách nhiệm dân sự: Chị T yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại số tiền 2.150.000đồng.
Bản cáo trạng số 149/CT-VKS ngày 03-8-2018, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu đã truy tố bị cáo Biện Văn K và bị cáo Nguyễn Quang T về tội “Cướp giật tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa:
Bị cáo Biện Văn K và bị cáo Nguyễn Quang T đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung cáo trang đã truy tồ đối với các bị cáo. Các bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, tỏ ra ăn năn, hối cải, xin được giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo Biện Văn K và bị cáo Nguyễn Quang T về tội “Cướp giật tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Biện Văn K và bị cáo Nguyễn Quang T từ 18 đến 24 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Biện Văn K và bị cáo Nguyễn Quang T phải bồi thường cho chị Đỗ Phương T số tiền 2.150.000đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Biện Văn K và bị cáo Nguyễn Quang T đã khai nhận toan bô hanh vi pham tôi cua minh. Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo với lời khai của bị hại và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn phù hợp, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xac đinh:
Khoảng 13giờ 00 phút ngày 07-3-2018, tại trước số nhà 115 Hải Thượng Lãn Ông, phường Rạch Dừa, TP.Vũng Tàu, bị cáo Biện Văn K và bị cáo Nguyễn Quang T đã cùng nhau thực hiện hành vi cướp giật chiếc điện thoại di động Iphone 5 của chị Đỗ Phương T. Theo kết quả định giá của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Vũng Tàu giá trị chiếc ĐTDĐ các bị cáo chiếm đoạt của chị T là 2.150.000đồng. Hành vi bị cáo Biện Văn K và bị cáo Nguyễn Quang T đã thực hiện nêu trên đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015.
[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi của các bị cáo: Xét tính chất, mức độ do hành vi phạm tội của các bị cáo đã gây ra là nguy hiêm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ; ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương và xã hội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm, áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm đối với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm giáo dục riêng, răn đe và phòng ngừa chung về tội phạm xã hội.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên thuộc trường hợp “Tái phạm” là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
[5] Về tính chất đồng phạm và hình phạt: Các bị cáo cùng cố ý thực hiện tội phạm, nhưng hành vi của các bị cáo là nhất thời, không có sự bàn bạc, chuẩn bị từ trước và có sự câu kết chặt chẽ nên thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn. Trong đó, bị cáo T là người khởi sương, trực tiếp thực hiện hành vi cướp giật tài sản nên có vai trò lớn hơn bị cáo K, do đó phải chịu mức hình phạt cao hơn bị cáo K.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Chị Đỗ Phương T yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại số tiền 2.150.000đồng, tại phiên tòa các bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bị hại nên ghi nhận. Buộc các bị cáo phải liên đới bồi thường thiệt hại cho chị T số tiền 2.150.000đồng.
[7] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự và dân sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bô : Bị cáo Biện Văn K và bị cáo Nguyễn Quang T phạm tôi “Cướp giật tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015;
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quang T 24 (hai mƣơi bốn) tháng tù, thơi han tù được tính từ ngày 06 tháng 6 năm 2018.
Xử phạt : Bị cáo Biện Văn K 18 (mƣời tám) tháng tù, thơi han tu đươc tính từ ngày 06 tháng 6 năm 2018.
2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584 và Điều 589 Bộ luật dân sự Buộc bị cáo Biện Văn K và bị cáo Nguyễn Quang T phải liên đới bồi thường thiệt hại cho chị Đỗ Phương T số tiền 2.150.000đ (Hai triệu một trăm năm mươi ngàn đồng), mỗi bị cáo 1.575.000đ (Một triệu năm trăm bảy mươi lăm ngàn đồng)
Kể từ ngày bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 cho đến khi thi hành án xong.
4. Về án phi:
Bị cáo Biện Văn K và bị cáo Nguyễn Quang T, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đông ) án phí hinh sư sơ thâm và 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sư sơ thâm.
5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo đươc quyên khang cao ban an trong thơi hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xet xư theo thủ tục phuc thâm . Bị hại vắng mặt, thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.
Bản án 166/2018/HS-ST ngày 19/09/2018 về tội cướp giật tài sản
Số hiệu: | 166/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/09/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về