Bản án 165/2021/HS-ST ngày 17/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 165/2021/HS-ST NGÀY 17/06/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17/6/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 179/2021/HSST ngày 28 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 172/2021/QĐXX-ST ngày 01 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:

NGUYỄN THỊ N - Sinh năm 199X; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nữ; Hộ khẩu thường trú: Số 03 Tổ 6A phường T, quận H, Hà Nội; Nơi ở: Không cố định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 11/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Họ tên bố: Nguyễn Văn N; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị H; Chồng: Phạm Trung H – Sinh năm 198X; Có 02 con, con lớn sinh 2013, con nhỏ sinh 2015; Danh chỉ bản số: 173 lập ngày 17/3/2021 do Công an quận Hai Bà Trưng cung cấp.

Nhân thân: Bản án số 103/2021/HS-ST ngày 18/5/2021 của Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (Bản án chưa có hiệu lực pháp luật).

Bị bắt quả tang ngày 11/3/2021. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố Hà Nội. (Có mặt tại phiên toà).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21h55’ ngày 11/3/2021, tổ công tác Công an phường L đang làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa số nhà 08 ngõ 55 phố L, phường Đ, quận H, Hà Nội, phát hiện Nguyễn Sơn T (SN: 198X, HKTT: Số 16, ngõ 132 phố L, phường B, quận H, Hà Nội) điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda SH màu đen, BKS: 29Y3 - 8848 chở Nguyễn Thị N đang nói chuyện với một nam thanh niên có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Quá trình kiểm tra, N tự nguyện giao nộp 01 (một) túi nilon màu trắng, bên trong chứa tinh thể màu trắng, tại chỗ N khai là ma túy “đá” đang chuẩn bị bán cho nam thanh niên tên là Q để kiếm lời, nhưng chưa kịp bán thì bị bắt giữ như trên. Qua kiểm tra T không phát hiện gì, còn nam thanh niên tên Q đã bỏ chạy, đánh rơi số tiền 200.000 đồng và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu ITEL màu đỏ. Tổ công tác đã lập biên bản thu giữ, niêm phong tang vật và đưa các đối tượng về trụ sở Công an phường để điều tra làm rõ.

Ngoài ra cơ quan điều tra còn thu giữ của N 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, thu giữ của T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S10 màu đen và 01 (một) xe máy nhãn hiệu Honda SH màu đen, BKS: 29Y3- 8848.

Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Hai Bà Trưng đã Quyết định trưng cầu giám định đối với số ma túy thu giữ của Nguyễn Thị N.

Tại bản Kết luận giám định số 2203/KLGĐ-PC09 ngày 21/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội đã kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong (thu giữ của Nguyễn Thị N) là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,275 gam.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Thị N khai nhận: Khoảng 20h45’ ngày 11/3/2021, N nhận được điện thoại từ số 0774687997 của một nam thanh niên tên là Q gọi vào số điện thoại của N là số 0339544918 hỏi mua 500.000 đồng tiền ma túy “đá”. N đồng ý và hẹn giao ma túy tại khu vực ngõ 55 phố L, Hà Nội. Sau đó, N đi bộ đến khu vực đê T, quận H, Hà Nội. Tại đây N gặp và mua của một người đàn ông không quen biết 01 (một) gói ma túy “đá” với giá 450.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, N cất vào túi áo khoác bên phải đang mặc rồi đi bộ ra khu vực phố T, Hà Nội. Do không có xe máy nên N nhờ Nguyễn Sơn T chở đi có việc, T đồng ý và điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda SH màu đen, BKS: 29Y3-8848 chở N đến khu vực trước cửa số nhà 8 ngõ 55 phố L, quận H, Hà Nội thì gặp Q. N lấy gói ma túy cầm ở tay phải định giao cho Q thì bị cơ quan công an kiểm tra và bắt giữ như trên còn Q lợi dụng sơ hở bỏ thạy thoát. Ngoài ra N khai việc N mua bán ma túy T không biết và không liên quan. N khai đây là lần đầu tiên bán ma túy.

Tại cơ quan điều tra Nguyễn Sơn T khai nhận phù hợp với lời khai của N.

Cơ quan điều tra đã dẫn giải N chỉ địa điểm và đối tượng bán ma túy, kết quả: N xác định được địa điểm mua ma túy tại khu vực đầu ngõ 31 phố T, quận H, Hà Nội nhưng không xác định được đối tượng bán ma túy. Vì vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đối với Nguyễn Sơn T, quá trình điều tra xác định T không biết và không liên quan đến hành vi mua bán ma túy của N. Vì vậy, cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đối với người đàn ông tên Q hỏi mua ma túy của Nguyễn Thị N vào ngày 11/3/2021, sử dụng số điện thoại 0878706154 và 0774687997. Cơ quan điều tra đã ra lệnh thu giữ thư tín, điện tín đối với các số điện thoại trên. Kết quả xác định: chủ thuê bao số điện thoại 0878706154 là anh Nguyễn Văn C (Sinh năm: 199X; địa chỉ: thị trấn C, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh) và anh Trương Quốc H (Sinh năm:199X, địa chỉ: số 847, tổ 10A phường Đ, quận L, Hà Nội). Tại cơ quan điều tra, anh H và anh C khai không đăng ký và sử dụng số thuê bao trên, không đăng ký hộ và không biết ai sử dụng số điện thoại trên. Vì vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen thu giữ của N là tài sản của N, sử dụng để liên lạc mua bán ma túy.

Đối với 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH màu đen, BKS: 29Y3- 8848 và 01 (một) điện thoại di động Samsung Galaxy S10 thu giữ của Nguyễn Sơn T. Quá trình điều tra xác định đó là tài sản của T, không liên quan đến việc mua bán ma túy nên ngày 24/5/2021, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả chiếc điện thoại và chiếc xe máy trên cho T.

Tại bản Cáo trạng số 167/CT-VKSHBT-HS ngày 26 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng - Thành phố Hà Nội đã truy tố Nguyễn Thị N về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà :

Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như trong quá trình điều tra và nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận Hai Bà Trưng giữ quan điểm truy tố với Nguyễn Thị N như tội danh và điều luật đã viện dẫn tại bản Cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, đánh giá mức độ phạm tội, xem xét nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ đã đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo mức án từ 36 đến 42 tháng tù; Phạt tiền 5.000.000 đồng đối với bị cáo; Tịch thu tiêu huỷ 01 túi nilong ma túy loại Methamphetamine khối lượng 0,275 gam; Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen thu giữ của bị cáo đã sử dụng để liên lạc mua bán ma túy, số tiền 200.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu ITEL màu đỏ của người đàn ông tên Q bỏ chạy đánh rơi lại hiện trường.

Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang, bằng vật chứng thu giữ của bị cáo. Căn cứ Bản Kết luận giám định số 2203/KLGĐ-PC09 ngày 21/3/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội đã kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilong (thu giữ của Nguyễn Thị N) là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,275 gam cùng các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21h55 ngày 11/3/2021, tại khu vực trước cửa số nhà 08, ngõ 55 phố L, quận H, Hà Nội, Nguyễn Thị N có hành vi mua bán trái phép 0,275 gam ma túy loại Methaphetamine cho đối tượng tên Q nhằm mục đích bán để kiếm lời. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc mua bán trái phép chất ma túy bị pháp luật cấm, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi mua ma túy để bán lại cho người khác với mục đích để kiếm lời. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”, tội danh và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự coi thường pháp luật, xâm phạm sự quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm an ninh trật tự an toàn xã hội. Ma túy là chất gây nghiện làm huỷ hoại sức khoẻ con người, làm sói mòn đạo đức xã hội, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Hành vi của bị cáo đã tiếp tay cho những kẻ mua bán ma tuý và ma tuý cũng là nguyên nhân gây ra các tội phạm hình sự khác.

[4] Về nhân thân của bị cáo: Bản án số 103/2021/HS-ST ngày 18/5/2021 của Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (Bản án chưa có hiệu lực pháp luật).

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Khi áp dụng hình phạt, Hội đồng xét xử đã xem xét, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, lượng ma túy bị cáo mua bán không nhiều, do vậy Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về tình tiết tăng nặng: Không.

Ngày 18/5/2021, Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, Hà Nội đã xét xử bị cáo 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (Bản án chưa có hiệu lực pháp luật). Tuy nhiên hành vi của bị cáo thực hiện trong vụ án này khi chưa phải chấp hành án bản án có hiệu lực pháp luật của TAND quận cầu Giấy, vì vậy không thuộc trường hợp tái phạm, nên không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo quy định của pháp luật.

[7] Về trách nhiệm hình sự và hình phạt: Trong vụ án này, tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi Mua bán trái phép chất ma túy thì bị cáo đang trong thời gian được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú để chờ xét xử trong vụ án Tàng trữ trái phép chất ma túy của TAND quận Cầu Giấy, bị cáo lại tiếp tục có hành vi vi phạm pháp luật và bị Cơ quan điều tra Công an quận Hai Bà Trưng khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam, thể hiện bị cáo rất coi thường pháp luật, không có ý thức chấp hành pháp luật, trước đó bị cáo đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật đang chờ Tòa án xét xử nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, sửa đổi bản thân mà lại tiếp tục đi vào con đường phạm tội. Do đó cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung, bảo đảm trật tự kỷ cương xã hội.

[8] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu huỷ 01 túi nilong ma túy loại Methamphetamine khối lượng 0,275 gam thu giữ của bị cáo là chất gây nghiện bị cấm lưu hành theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen thu giữ của bị cáo đã sử dụng để liên lạc mua bán ma túy, số tiền 200.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu ITEL màu đỏ của người đàn ông tên Q bỏ chạy đánh rơi lại hiện trường theo quy định tại điểm a,b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[10] Cơ quan điều tra đã dẫn giải N xác định địa điểm và đối tượng bán ma túy, kết quả: N xác định được địa điểm mua ma túy tại khu vực đầu ngõ 31 phố T, quận H, Hà Nội nhưng không xác định được đối tượng bán ma túy. Vì vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[11] Đối với Nguyễn Sơn T, quá trình điều tra xác định T không biết và không liên quan đến hành vi mua bán ma túy của N. Vì vậy, cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý. Đối với 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH màu đen, BKS: 29Y3-8848 và 01 (một) điện thoại di động Samsung Galaxy S10 thu giữ của Nguyễn Sơn T. Quá trình điều tra xác định đó là tài sản của T, không liên quan đến việc mua bán ma túy nên ngày 24/5/2021, Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả chiếc điện thoại và chiếc xe máy trên cho T. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[12] Đối với người đàn ông tên Q hỏi mua ma túy của Nguyễn Thị N vào ngày 11/3/2021, sử dụng số điện thoại 0878706154 và 0774687997. Cơ quan điều tra đã ra lệnh thu giữ thư tín, điện tín đối với các số điện thoại trên. Kết quả xác định: chủ thuê bao số điện thoại 0878706154 là anh Nguyễn Văn C (Sinh năm: 199X; địa chỉ: thị trấn C, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh) và anh Trương Quốc H (Sinh năm:199X, địa chỉ: số 847 tổ 10A phường Đ, quận L, Hà Nội). Tại cơ quan điều tra, anh H và anh C khai không đăng ký và sử dụng số thuê bao trên, không đăng ký hộ và không biết ai sử dụng số điện thoại trên. Vì vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

[13] Về án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Từ những nhận định trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố : Bị cáo Nguyễn Thị N phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

2. Áp dụng khon 1 Điu 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự,

Xử phạt: Nguyễn Thị N: 30 (Ba mươi) tháng tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/3/2021.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày để đảm bảo việc thi hành án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng : Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu huỷ 01 túi nilong ma túy loại Methamphetamine, khối lượng:

0,275 gam (01 bì giấy đã được niêm phong, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên và bị cáo Nguyễn Thị N);

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen thu giữ của bị cáo đã sử dụng để liên lạc mua bán ma túy, số tiền 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu ITEL màu đỏ của người đàn ông tên Q bỏ chạy đánh rơi lại hiện trường.

Tang vật trên hiện đang thu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng - Thành phố Hà Nội theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 02/6/2021, tang vật số 225/21 giữa Công an quận Hai Bà Trưng và Chi cục thi hành án dân sự quận Hai Bà Trưng và Giấy nộp tiền vào tài khoản số 394901049415 lập ngày 14/6/2021 tại Kho bạc Nhà nước quận Hai Bà Trưng.

4. Về án phí : Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và khoản 1 phần I Mục A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết: Bị cáo Nguyễn Thị N phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

288
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 165/2021/HS-ST ngày 17/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:165/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về