Bản án 165/2020/HS-ST ngày 25/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ B, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 165/2020/HS-ST NGÀY 25/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 166/2020/TLST- HS ngày 23 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:170/2020/QĐXXST- HS ngày 11 tháng 8 năm 2020 đối với Bị cáo:

Họ và tên: Quàng Văn T; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1967 tại Điện Biên; Nơi cư trú: Bản H H, xã T L, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa (học vấn): 7/10; Con ông: Quàng Văn P (đã chết) và con bà: Quàng Thị Á (đã chết); có vợ là Quàng Thị S sinh năm: 1970 (Hiện đang chấp hành án tại trại giam Quyết Tiến, Bộ Công an); bị cáo có 02 con con lớn sinh năm 1992 con nhỏ sinh năm 1995; Tiền sự: Không; Tiền án: Không. Nhân thân: Chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị Tòa án xét xử.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 06/6/2020 sau đó chuyển sang tạm giam cho đến ngày xét xử (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 05/6/2020, Quàng Văn T đi bộ một mình từ nhà ở bản H H, xã T L, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên, mục đích đi tìm mua ma túy về sử dụng. Bị cáo đi ra ngoài đường và xin đi nhờ xe người đi đường. Khi đến khu vực bản N N, xã T Y, huyện Đ B thì Bị cáo gặp một người phụ nữ dân tộc Thái khoảng 55 tuổi, đứng một mình ở bờ mương bản N N, xã T Y, huyện Đ B thì Bị cáo hỏi “Có ma túy không”? Người phụ nữ trả lời “Có, lấy bao nhiêu?”. Bị cáo nói “Cho tôi mua 1.200.000 đồng, lấy cho tôi 25 viên hồng phiến, còn lại thì lấy Heroine”. Nói xong, Bị cáo đưa cho người phụ nữ đó số tiền 1.200.000 đồng. Người phụ nữ cầm tiền Bị cáo đưa rồi đi vào trong bản N N, xã T Y, huyện Đ B. Khoảng 20 phút sau thì quay lại và nói “Hàng đây, đủ đấy, không lo đâu”. Nói xong, người phụ nữ đưa cho Bị cáo một gói ma túy. Bị cáo cầm gói ma túy người phụ nữ bán cho, xem thấy bên trong có 02 gói, mỗi gói được gói bên ngoài bằng nilon màu trắng, trong đó có 01 gói có 25 viên hồng phiến, một gói bên trong là Heroine. Bị cáo cầm số ma túy đi ra khu vực bờ mương bản N N, xã T Y, huyện Đ B. Thì gặp một người đàn ông đang đứng một mình gần bờ mương, Bị cáo nhờ người đàn ông chở về xã T L, huyện Đ B. Khi đến nhà Bị cáo trả cho người đàn ông đó 60.000 đồng. Về đến nhà, Bị cáo lấy một ít Heronine và hồng phiến ra sử dụng bằng hình thức hít và hút. Sử dụng xong, Bị cáo gói lại như cũ rồi cất toàn bộ số ma túy vào túi quần bên phải Bị cáo đang mặc. Đến khoảng 05 giờ ngày 06/6/2020, Bị cáo lấy gói ma túy trong túi quần bên phải ra, lấy một ít Heroine và 03 viên hồng phiến để sử dụng. Sử dụng xong, Bị cáo cho gói Heroine và gói hồng phiến vào một lọ nhựa màu trắng có nắp đậy rồi để ở đầu giường, cạnh quạt. Đến khoảng 15 giờ 50 phút cùng ngày Bị cáo đang ở nhà thì Tổ công tác của đồn Biên phòng T L phối hợp với phòng PCMT và Công an xã T L, huyện Đ B làm nhiệm vụ tại khu vực bản H H, xã T L, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên phát hiện nhà của Quàng Văn T có biểu hiện nghi vấn phạm tội ma túy. Sau khi được vận động giải thích, T đã tự động giao nộp hộp nhựa chứa gói Heroine và gói hồng phiến cất giấu trước đó cho cơ quan chức năng. Tiến hành kiểm tra trong hộp nhựa T giao nộp có hai gói nilon màu trắng, miệng hai gói đều hơ lửa hàn kín, Mở bên trong gói thứ nhất có 15 viên nén màu hồng, bên trên bề mặt các viên nén đều có chữ WY nghi ma túy tổng hợp, mở gói thứ hai bên trong có các cục bột màu trắng nghi là Heroine, Bị cáo khai với tổ công tác đó là Heroine và hồng phiến. Sau đó tổ công tác tiến hành mời người chứng kiến và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng.Tổ công tác thi hành lệnh khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Bị cáo, qua khám xét không phát hiện thu giữ gì thêm. Sau khi hoàn tất thủ tục tổ công tác đưa Bị cáo về đồn Biên phòng T L để làm rõ. Ngày 07/6/2020 đồn Biên phòng T L chuyển Quàng Văn T cùng hồ sơ, vật chứng đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện điều tra theo thẩm quyền.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng ngày 07/6/2020 đã xác định như sau:

Số viên nén màu hồng nghi ma túy tổng hợp của Quàng Văn T có khối lượng là 1,56 gam, trích gửi giám định 0,2 gam không hoàn lại mẫu vật. Vật chứng còn lại 1,36gam.

Số cục chất bột màu trắng đục nghi Heroine của Quàng Văn T có khối lượng là 2,61 gam, trích gửi giám định 0,18 gam không hoàn lại mẫu vật. Vật chứng còn lại 2,43gam.

Tại bản kết luận giám định số 513/GĐ-PC09 ngày 15/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Quàng Văn T gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018; Mẫu viên nén mầu hồng gửi giám định của Quàng Văn T gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 323, Mục IIC, Danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018.

Tại bản cáo trạng số 165/CT-VKSĐB ngày 22/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B truy tố bị cáo Quàng Văn T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên giữ quyền công tố, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: Điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo: Từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với Bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47/BLHS và điểm a, c khoản 2 Điều 106/BLTTHS.

Tịch thu tiêu hủy gồm: 2,61gam Heroine (đã trích gửi giám định không hoàn lại 0,18 gam, vật chứng còn lại là 2,43 gam); 1,56 gam Methamphetamine (đã trích gửi giám định không hoàn lại 0,2 gam,vật chứng còn lại 1,36gam); 01lọ nhựa màu trắng có nắp đậy, đường kính 2,5cm, chiều cao 1,5cm.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc Bị cáo chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố.

Lời nói sau cùng của Bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho Bị cáo để Bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của Bị cáo:

Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Quàng Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định khối lượng; Kết luận giám định, Kết luận điều tra, các bản cung, biên bản ghi lời khai, bản tự khai có trong hồ sơ vụ án cũng như cáo trạng đã truy tố đối với Bị cáo, có đủ cơ sở khẳng định: Hồi 15 giờ 50 phút ngày 06/6/2020 tại bản H H, xã T L, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên, Quàng Văn T đã có hành vi cất giấu trái phép tại nơi ở của Bị cáo 2,61 gam Heroine và 1,56 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của Bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, vi phạm pháp luật. Hành vi nêu trên của Bị cáo có đủ các yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó T đương với khối lượng hoặc thể tích ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này," Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, khẳng định Viện kiểm sát truy tố Bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều luật đã viện dẫn ở trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không bị oan sai.

[2] Về tính chất của vụ án: Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng. Hành vi cất giấu trái phép chất ma túy nhằm mục đích để sử dụng của Bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, gây dư luận xấu trên địa bàn. Mặt khác ma túy là hiểm họa của loài người, là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Chính vì vậy Bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội mà mình đã gây ra. Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với Bị cáo để giáo dục Bị cáo trở thành công dân tốt và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của Bị cáo:

- Tình tiết tăng nặng: Bản thân bị cáo không có tình thiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với Bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Về nhân thân: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại Điện Biên được gia đình nuôi ăn học hết lớp 7/10 thì nghỉ học ở nhà lao động sản xuất, phụ giúp gia đình.

Năm 1992 lấy vợ và có 02 người con lớn sinh năm 1992, con nhỏ sinh năm 1995.

Bị cáo nghiện ma túy từ năm 2018 cho đến ngày bị bắt.

Việc đề nghị áp dụng hình phạt của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đối với Bị cáo là có căn cứ nên HĐXX cần chấp nhận.

Ngoài hình phạt chính Bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nhưng xét thấy Bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thu nhập chủ yếu dựa vào lao động sản xuất nông nghiệp ngoài ra không có thu nhập nào khác, nên không có khả năng thi hành. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Bị cáo.

[4] Về vật chứng vụ án gồm: 2,61gam Heroine (đã trích gửi giám định không hoàn lại 0,18 gam, vật chứng còn lại là 2,43 gam); 1,56 gam Methamphetamine (đã trích gửi giám định không hoàn lại 0,2 gam,vật chứng còn lại 1,36gam); 01lọ nhựa màu trắng có nắp đậy, đường kính 2,5cm, chiều cao 1,5cm, cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Các vấn đề khác:

Bị cáo khai nguồn gốc số ma túy Cơ quan điều tra thu giữ do Bị cáo mua của một người phụ nữ dân tộc Thái khoảng 55 tuổi (không biết tên, tuổi, địa chỉ) ở khu vực bản NN, xã T Y, huyện Đ B, quá trình điều tra không xác minh, làm rõ được. Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không đề cập nên hội đồng xét xử không xem xét xử lý.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng:

Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Cơ quan truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp lu ật.

[7] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị định số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 buộc Bị cáo phải chịu 200.000đ đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng: Điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Quàng Văn T phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử phạt Bị cáo: 04 (bốn) năm . Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (06/6/2020).

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS và điểm a,c khoản 2 Điều 106 BLTTHS:

* Tịch thu tiêu hủy gồm: 2,61gam Heroine (đã trích gửi giám định không hoàn lại 0,18 gam, vật chứng còn lại là 2,43 gam); 1,56 gam Methamphetamine (đã trích gửi giám định không hoàn lại 0,2 gam,vật chứng còn lại 1,36gam); 01lọ nhựa màu trắng có nắp đậy, đường kính 2,5cm, chiều cao 1,5cm.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/7/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ B và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ B, tỉnh Điện Biên).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án buộc Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 165/2020/HS-ST ngày 25/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:165/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:25/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về