Bản án 165/2019/HS-PT ngày 26/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 165/2019/HS-PT NGÀY 26/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 3 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 90/2019/TLPT-HS ngày 01 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo Trương Hữu N do có kháng cáo của bị cáo N đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 128/HS-ST ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Trương Hữu N; Sinh ngày 20 tháng 12 năm 1972 tại tỉnh Trà Vinh; Giới tính: Nam; Thường trú: 106/171B ND, Phường G, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hoá: 02/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Không rõ và bà Trương Thị T; có vợ tên Nguyễn Thị Thanh T (đã ly hôn) và 01 con, sinh năm 2012;

Tiền án:

1/Tại Bản án hình sự số 783/HSST ngày 16/5/1997 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 (ba) năm tù về tội “Mua bán trái phép vũ khí quân dụng”; 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”; 01 (một) năm tù về tội “Bắt người trái pháp luật”; 02 (hai) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”; 02 (hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt là 10 (mười) năm tù.

2/Tại Bản án hình sự số 05/HS-ST ngày 22/5/2002 của Tòa án nhân dân huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên xử phạt 04 (bốn) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp với hình phạt của Bản án số 783/HSST ngày 16/5/1997 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 14 (mười bốn) năm tù. Bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 02/3/2010.

3/Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 238/HSST ngày 12/11/2013 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt bị cáo 07 (bảy) năm tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 12/02/2018.

Tiền sự: Không;

Nhân thân: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 336/HSST ngày 28/6/1989 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 (ba) năm tù về tội “Cướp tài sản của công dân”.

Bị bắt, tạm giam từ ngày 23/6/2018 - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 04 giờ 00 phút, ngày 23/6/2018, Đội quản lý hành chính kết hợp với Đội Cảnh sát về ma túy, cùng với Công an Phường 2, Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành kiểm tra tại lầu 1 số nhà 114 đường Phan Văn Trị, Phường 2, Quận 5 phát hiện thu giữ túi xách của Trương Hữu N, bên trong có 02 viên nén màu xanh lá, Nghĩa khai là thuốc lắc. Tại thời điểm kiểm tra trong phòng còn có Dương Hoàng A, Huỳnh Ngọc Mỹ T, Nguyễn Thanh T1, Lưu Cẩm H. Trong quá trình kiểm tra, tổ công tác còn thu giữ dưới nền nhà 01 viên nén màu xanh lá, 01 viên nén màu xanh lá để trên dĩa thủy tinh và 01 bịch nylon chứa tinh thể không màu nên đưa N, T, T1, A và H cùng tang vật về Công an Phường 2, Quận 5 lập biên bản phạm tội quả tang.

Tại cơ quan điều tra Trương Hữu N khai nhận 02 viên nén màu xanh lá trong túi xách là do N nhặt được tại quán cà phê trên đường Sư Vạn Hạnh, Quận 10. N cất giấu vào tùi xách để dành sử dụng. Ngày 23/6/2018, khi đi chơi với nhóm bạn tại quán bar ở Quận 1, do mệt nên N đón taxi rủ cả nhóm về số 114 Phan Văn Trị, Phường 2, Quận 5 để nghỉ ngơi. Số ma túy gồm 01 viên nén dưới đất, 01 viên nén trên dĩa thủy tinh và 01 bịch nylon, N khai không biết của ai.

Tại Bản án số: 128/2018/HS-ST ngày 26-12-2018 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh đã Quyết định: Tuyên bố bị cáo Trương Hữu N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017,

Xử phạt bị cáo Trương Hữu N 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/6/2018.

Ngoài ra Bản án còn tuyên về hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo.

Ngày 05/01/2019, bị cáo Trương Hữu N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trương Hữu N giữ nguyên nội dung kháng cáo như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, mức hình phạt là thỏa đáng. Do đó đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.

Bị cáo không tham gia tranh luận.

Lời nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Trương Hữu N về nội dung quyền kháng cáo và thời hạn kháng cáo thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về tố tụng: Tại lý lịch bị can Trương Hữu N xác định bị cáo có trình độ học vấn 02/12. Tuy nhiên tại các Bản án: 336/HSST ngày 28/6/1989, Bản án số: 783/HSST ngày 16/5/1997 xác định bị cáo không biết chữ. Mặt khác, tại bản tự khai của bị cáo N (tại bút lục hồ sơ số 34) xác định bị cáo mù chữ nên có ông Nguyễn Hồ V, trú tại: C5/15 PH, xã BH, huyện B là người viết hộ. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo cũng khai nhận mặc dù đã học hết lớp 1, nhưng bị cáo chỉ biết viết tên “N”, không biết đọc, biết viết. Do đó, hành vi tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an Quận 5, Điều tra viên trong việc tiến hành các hoạt động điều tra như lập biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung bị can không có sự tham gia của người chứng kiến là vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, nhưng xét việc vi phạm tố tụng trên không ảnh hưởng đến bản chất khách quan của vụ án nên Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm cần nghiêm khắc rút kinh nghiệm.

[3] Căn cứ lời khai của bị cáo Trương Hữu N tại phiên tòa phúc thẩm, cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở xác định: Vào lúc 04 giờ 00 phút, ngày 23/6/2018, Trương Hữu N đã có hành vi tàng trữ trái phép 02 viên ma túy, có khối lượng 0,7089 gram là ma túy ở thể rắn, loại MDMA để sử dụng. Bản án sơ thẩm số: 128/2018/HS-ST ngày 26-12-2018 của Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử bị cáo Trương Hữu N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến sự độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma túy, mà còn là nguyên nhân gián tiếp gây ra các tệ nạn xã hội, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Bị cáo là người đã thành niên, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng vì nhu cầu sử dụng trái phép chất ma túy của bản thân mà tàng trữ trái phép 0,7089 gram MDMA. Mặt khác, nhân thân bị cáo có 03 tiền án, chưa được xóa án tích, trong đó tại Bản án số 238/HSST ngày 12/11/2013 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt bị cáo 07 (năm) tù giam về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung tăng nặng là “tái phạm nguy hiểm”, nay lại thực hiện một hành vi phạm tội do cố ý, nên vẫn thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Trương Hữu N 07 năm tù là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi và hậu quả tội phạm mà bị cáo đã gây ra.

[5] Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, đồng thời tại phiên tòa phúc thẩm thừa nhận hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện và thể hiện thái độ ăn năn, hối cải, đây là tình tiết mới được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tuy nhiên, xét bị cáo là người có nhân thân xấu, từng 03 lần bị kết án, sau khi chấp hành xong hình phạt của các Bản án không chịu sửa đổi bản thân, nay lại tiếp tục thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là thể hiện ý thức xem thường pháp luật nên cần có mức án nghiêm như cấp sơ thẩm đã tuyên, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài, mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên Bản án sơ thẩm đã tuyên.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Điều 135, 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015,

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trương Hữu N và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Tuyên bố bị cáo Trương Hữu N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017,

Xử phạt bị cáo Trương Hữu N 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/6/2018.

Căn cứ Điều 135; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Buộc bị cáo Trương Hữu N chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

395
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 165/2019/HS-PT ngày 26/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:165/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về