TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 164/2021/HS-ST NGÀY 01/06/2021 VỀ TỘI GIỮ NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 01 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:154/2021/TLST-HS ngày 12 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 188/2021/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:
Lê Thị XL, sinh năm 1990; Nơi ĐKHKTT: Tổ 59, khu 4B, phường CX, thành phố HL, tỉnh QN; Nơi ở: Không nơi ở cố định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê TB, sinh năm 1953 và con bà Nguyễn TV, sinh năm 1959; có chồng là WC, sinh năm 1990 (Quốc tịch: Trung Quốc; Trú tại: Tỉnh VG Tô, Trung Quốc); và có 01 con sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: Không; Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/11/2018 đến ngày 02/4/2019; Bị bắt truy nã ngày 14/4/2021, hiện đang tạm giam tại trại tạm giam số 01- Công an thành phố Hà Nội. (Có mặt)
- Bị hại: Anh Lê VT (Lê MT), sinh năm 1977; Địa chỉ: Thôn UA, xã LT, huyện TL, tỉnh QB; Chỗ ở: Tòa nhà trung tâm phần mềm, quận HC, thành phố ĐN. Nghề nghiệp: Giám đốc Công ty TNHH một thành viên Đầu tư xây dựng thương mại ĐGC; trụ sở: Số 184 đường TCV, phường TKĐ, quận TK, thành phố ĐN. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng tháng 05/2018, anh Lê VT (tức Lê MT sinh năm 1977; trú tại thôn Uẫn Áo, xã LT, huyện TL, tỉnh QB) là Giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên Đầu tư xây dựng thương mại ĐGC (Công ty ĐGC), trụ sở tại số 184, đường TCV, phường TKĐ, quận TK, thành phố ĐN có quan hệ quen biết và hợp tác làm ăn, buôn bán với Võ Sơn L1 và Nguyễn Thị O. Thời gian trên, qua quan hệ xã hội, anh Lê VT cùng L1 và O biết ông Nguyễn NT1(sinh năm 1954; trú tại xóm 8, xã Thái Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái VB2) muốn bán viên gia bảo (hay còn gọi là thiên thạch) của gia đình với giá hàng triệu đô la Mỹ (USD). Anh Lê VT có nhiều mối quan hệ với các đối tác nước ngoài, muốn mua viên gia bảo của ông NT1 để bán lại kiếm lời nên đã liên hệ và rủ L1, O góp vốn, đặt cọc mua viên gia bảo của ông NT1 để bán kiếm lời chia nhau. Sau khi bàn bạc, cả nhóm thống nhất liên hệ mua viên gia bảo của ông NT1. Theo thỏa thuận, anh Lê VT là người liên hệ làm thủ tục mua và tìm nguồn bán viên gia bảo; còn L1 và O sẽ thanh toán các khoản chi phí phát sinh như đi lại, ăn uống, thuê khách sạn… tiền lãi sau đó sẽ chia đều cho từng người. Do cần tiền đặt cọc nên Võ Sơn L1 đã liên hệ với em gái là Võ Thị TT1 (sinh năm 1973; trú tại xã Đức Lập Thượng, huyện Đức Trà, tỉnh L1 An) hỏi vay 200.000.000 đồng. Chị TT1 đồng ý và đưa 200.000.000 đồng cho anh Nguyễn VG (sinh năm 1980; trú tại xã Vĩnh Lộc A, huyện BC, thành phố Hồ Chí Minh; là em trai của Nguyễn Thị O) đi từ thành phố Hồ Chí Minh ra tỉnh Thái VB2 đưa cho L1 số tiền trên. Lúc này anh Lê VT nói cần 220.000.000 đồng để đặt cọc nên O góp thêm 12.000.000 đồng; VG góp thêm 5.000.000 đồng, thành tổng cộng là 217.000.000 đồng. Anh Lê VT đã viết giấy biên nhận nợ cho anh VG số tiền 220.000.000 đồng để đặt cọc mua viên gia bảo nhà ông NT1. Sau đó do việc mua bán viên gia bảo của ông NT1 không thành nên cả nhóm không lấy lại được tiền đặt cọc.
Đến tháng 06/2018, do anh Lê VT chưa trả cho anh VG số tiền 220.000.000 đồng (tiền do L1, O vay của TT1) nên L1 và O đã bàn với anh Lê VT cùng chị Nguyễn Thị MP1 (bạn gái của AT) chuyển tìm nguồn hàng khác để bù lại các chi phí đã bỏ ra mua viên gia bảo. Sau đó tất cả thống nhất L1, O sẽ tìm nguồn than để anh Lê VT ký hợp đồng với Công ty xuất khẩu than; cùng làm, cùng ăn chia lợi nhuận, nếu không được việc thì phải cùng chịu các khoản chi phí. Do anh Lê VT không có khả năng về tài chính nên các chi phí sẽ do L1 và O bỏ ra. Qua mối quan hệ xã hội, chị Nguyễn Thị Lan Phương (sinh năm 1964; trú tại HL, QN - là chủ nhà nghỉ Sunwell; nơi cả nhóm cùng ở tại đó) giới thiệu Phạm AT là cháu của chị Phương biết về nguồn than sẽ giúp. Sau đó, L1 cùng O và Phạm AT đã bỏ ra các chi phí thuê xe, chi phí ăn ở đi lại để đi tìm nguồn than. Tuy nhiên do anh Lê VT không ký được hợp đồng với Công ty xuất khẩu than nên không có lợi nhuận. Vì thế chi phí của L1, O bỏ ra khoảng 250.000.000 đồng và Phạm AT bỏ ra khoảng 65.000.000 đồng không thu hồi được. Thời gian này, do bị nhóm của L1, O nhiều lần đòi tiền nên anh Lê VT tránh mặt không gặp và không có tiền để thanh toán khoản đặt cọc bị mất cùng các khoản tiền chi phí phát sinh.
Do đã nhiều lần tìm nhưng không gặp được anh Lê VT nên ngày 25/10/2018, Nguyễn Thị O liên hệ với chị Lê TY (sinh năm 1964; trú tại thôn Kim Bài, thị trấn TO, huyện TO, Hà Nội; là người quen của anh Lê VT) để hỏi về nơi ở của anh Lê VT. Để không bị anh Lê VT phát hiện, O đã nhờ chị TY liên hệ với anh Lê VT để hẹn gặp. Thời điểm này, anh Lê VT từ thành phố ĐN ra thành phố Hà Nội để giao dịch làm ăn và đến ở nhà người quen là chị Nguyễn Thị MP1 tại Phòng 2014CT3, khu đô thị VQ, phường PL, quận HĐ, Hà Nội. Do không biết chị TY hẹn gặp giúp O nên anh Lê VT đã đồng ý gặp chị TY tại quán cafe Việt ở tầng 1 CT7B, khu đô thị VQ, phường PL, quận HĐ. Chị TY hẹn được anh Lê VT xong đã nói lại địa chỉ hẹn gặp cho O biết. Lúc này, O bàn với Võ Sơn L1 và Phạm AT về việc đi từ tỉnh QN về phường VQ, quận HĐ, Hà Nội bắt anh Lê VT đưa xuống tỉnh QN để yêu cầu thanh toán các khoản nợ. Để thực hiện kế hoạch trên, sáng ngày 26/10/2018, O đã thuê chiếc xe ô tô Huyndai màu đỏ, biển kiểm soát 15A-358.83 của Hoàng VB2 (chủ nhà nghỉ Nữ Hoàng ở số 159, phố LTT, phường HG, thành phố HL, tỉnh QN; là nơi O, L1 và anh Lê VT nhiều lần thuê phòng ở); đồng thời thuê VB2 trực tiếp lái xe lên quận HĐ, Hà Nội. Trước khi đến khu đô thị VQ, phường VQ, quận HĐ, do sợ bị anh Lê VT phát hiện ra nhóm của O, L1 thì sẽ bỏ trốn và không biết đường đi đến quán café Việt nên cả nhóm để xe của VB2 lại quán nước của anh Nguyễn Văn K1 ở nhà số 03, khu Biệt thự 8, đô thị Văn Khê, phường Văn Khê, quận HĐ; sau đó đi xe ô tô taxi và nhờ anh K1 đi xe máy chở theo đối tượng Ánh (hiện chưa xác định được nhân thân) dẫn đường. Trên đường đến nơi hẹn, O đã nhờ chị TY liên hệ với anh Lê VT hẹn ra quán cà fe Việt. Khi tất cả đến nơi, O đã nói với VB2: “Mày đi theo thằng kia vào quán cà fe, vì VT không biết mặt”. VB2 đã đi cùng K1 vào quán cà fe trước để xem anh Lê VT đã đến chưa. Khoảng 10h30 phút ngày 26/10/2018, khi tất cả vào trong quán café Việt thì Phạm AT cùng Hoàng VB2 và Võ Sơn L1 nhìn thấy anh Lê VT nên đã xông vào dùng vũ lực khống chế anh Lê VT. Phạm AT dùng tay tát vào mặt và đầu anh Lê VT. Còn L1 và VB2 giữ 02 tay AT, VB2 túm cổ áo của anh Lê VT. Do anh Lê VT vùng vẫy để thoát ra nên VB2 đã giữ, bẻ tay của anh Lê VT. O đứng bên cạnh hô hét, chửi AT vì đã trốn nợ. Sau đó, cả nhóm ép anh Lê VT lên xe taxi đang chờ sẵn để đưa về quán nước của anh K1. Về đến nơi, tất cả đánh, ép anh Lê VT đưa từ xe taxi sang xe ôtô Huyndai biển kiểm soát 15A-358.83 của VB2 và VB2 lái xe ô tô chở anh Lê VT cùng Phạm AT, L1 và O về tỉnh QN. Trên đường đi thì VB2 lái xe ô tô; O ngồi hàng ghế trước bên phải; L1 và Phạm AT bắt anh Lê AT ngồi ở hàng ghế sau và ngồi kẹp hai bên, đề phòng anh Lê VT lao ra ngoài xe. Suốt đoạn đường về tỉnh QN, L1 nhiều lần dùng cùi chỏ huých vào người anh Lê VT và đe dọa: “Người gày như chú, anh đánh thì chú không chịu nổi”. O liên tục quay xuống chửi anh Lê VT vì việc trốn nợ; còn Phạm AT dùng tay tát mấy cái vào mặt anh Lê VT. Khi ở trên xe ô tô, Phạm AT đã khám người và lấy của anh Lê VT 01 điện thoại di động hiệu Sam Sung và 01 điện thoại di động hiệu Iphone7. Khoảng 14h00 cùng ngày, VB2 cùng L1, O và Phạm AT đưa anh Lê VT về nơi thuê trọ của Phạm AT ở số 628, phố Đặng Châu Tuệ, khu phố 1, phường QH, thành phố CP, tỉnh QN. Tại đây, có một số bạn của Phạm AT là Lê Thị XL (sinh năm 1990; trú tại tổ 59, khu 4b, phường CX, thành phố HL, tỉnh QN) và Trần Thị Thủy (sinh năm 1990; trú tại xóm 2, xã Trường Sơn, huyện An Lão, Hải Phòng).
Tại nhà thuê trọ của Phạm AT, O cùng L1 đưa anh Lê VT vào phòng trong (phòng ngủ) để chốt công nợ. L1 và O đã buộc anh Lê VT phải viết 01 tờ giấy liệt kê từng khoản nợ và viết 01 tờ giấy chốt tổng số tiền nợ của L1, O là 590.000.000 đồng. Anh Lê VT sợ bị đánh tiếp nên đã buộc phải viết theo yêu cầu rồi đưa cho O giữ. Anh Lê VT nói với L1 và O: “Số tiền trả nợ hơi cao, anh xem lại cho em” thì L1 nói: “Chú nợ tiền anh để anh phải đi bắt”. Anh Lê VT xin L1 và O cho trả nợ trong khoảng thời gian từ 10 - 15 ngày nhưng O không đồng ý, yêu cầu anh Lê VT phải trả bớt ngay số tiền đang nợ. Cùng lúc này, O gọi Phạm AT vào phòng trong; trước mặt L1, Phạm AT và anh Lê VT, O đã viết giấy ủy quyền cho Phạm AT được thay mặt L1 và O đòi anh Lê VT số tiền 590.000.000 đồng. O nói với anh Lê VT: “Chú phải ở đây, đến bao giờ trả tiền thì về”. L1 nói với Phạm AT: “Xem nó còn tiền không, quan trọng nhất vẫn là có tiền để trả nợ”. Phạm AT ra phòng ngoài gọi điện thoại cho bạn là Nguyễn Văn Hùng (tức Hùng “xì ke”, sinh năm 1971; trú tại tổ 31, khu 5, phường QH, thành phố CP, tỉnh QN) nói đã bắt được anh Lê VT rồi và bảo Hùng đến. Một lúc sau, Hùng đi đến nhà Phạm AT với mục đích trông giữ anh Lê VT. Khi nhìn thấy anh Lê VT ở trong phòng, Hùng bảo “Đánh chết mẹ nó đi”. Sau đó, L1 và O đã bảo Phạm AT phải trông giữ anh Lê VT tại nhà trọ; mục đích để giải quyết xong số tiền nợ mà anh Lê VT đã viết trong giấy nhận nợ. Trước khi ra về nhà nghỉ của VB2 thì L1 và O gặp Hùng và nói giữ anh Lê VT ở nhà trọ của Phạm AT không an toàn, thống nhất đến ngày 27/10/2018 sẽ đưa anh Lê VT về nhà Hùng trông giữ. Hùng nói với O: “... Chị để đây em, ... chị giao cho em không phải suy nghĩ gì vì em giữ thằng này như báu vật”. L1 nói với anh Lê VT: “Nợ tao mày phải trả, đừng lừa tao, tao sang gặp mày sau”. Sau đó, VB2 đi về trước. Đến khoảng 17h30 phút cùng ngày thì L1 và O đi về nhà nghỉ Nữ Hoàng của VB2. Lúc này, Thủy đi chợ mua đồ ăn về nấu cơm chiều cho cả nhóm là Phạm AT, XL, Thủy, Hùng và anh Lê VT cùng ăn cơm và trông giữ anh Lê VT.
Sau khi L1 và O đi về, Phạm AT đã khám người anh Lê VT và lấy được chiếc ví bên trong có 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Lê VT, 01 thẻ bào hiểm, 01 thẻ ngân hàng, khoảng 3.000.000 đồng cùng 03 viên đá màu trắng hình chóp được bọc trong tờ lịch. Đến đêm ngày 26/10/2018, Phạm AT bảo Hùng và XL thuê taxi đưa anh Lê VT sang nhà Hùng ở số 726, tổ 4 khu 5, phường QH, thành phố CP, tỉnh QN để trông giữ. Trước khi lên xe taxi, Phạm AT đã bắt anh Lê VT viết giấy bán 02 điện thoại (do Phạm AT chiếm đoạt lúc trên xe ô tô đi từ thành phố Hà Nội về tỉnh QN) với giá 2.000.000 đồng. Khi về đến nhà Hùng thì Phạm AT bảo Lê Thị XL ở lại để cùng Hùng trông giữ AT. Lúc này, Hùng và XL đều biết mục đích nhóm của L1, O và Phạm AT bắt, giữ anh Lê VT để đòi nợ. Khi Phạm AT đưa anh Lê VT lên tầng 2 nhà Hùng, để uy hiếp ép anh Lê VT phải trả nợ cho L1 và O theo nội dung giấy ủy quyền; đồng thời Phạm AT đã dùng khóa số 8 khóa 02 tay của anh Lê VT vào nhau ra phía trước để không cho trốn. Vừa khóa, Phạm VT vừa chửi tục và nói: “…, nếu không trả tiền thì bị đánh, đừng hòng ra khỏi đây”. Anh Lê VT sợ bị đánh nên van xin thì Phạm AT bỏ ra ngoài và khoảng gần 01 giờ sau quay lại mở khóa cho anh Lê VT đi vệ sinh. Lúc này, Phạm AT phát hiện anh Lê VT đang cố giấu vật gì đó nên đã chửi anh Lê VT và khám người thu được 03 - 04 thẻ, trong đó có 02 thẻ ATM ngân hàng Techcombank. Khi mọi người ăn cháo tại nhà Hùng thì Phạm AT bảo XL dùng điện thoại quay video clip anh Lê VT đang ăn cháo để đề phòng nếu có tình huống xấu mà anh Lê VT thoát ra báo Công an thì sẽ đưa clip đó để làm bằng chứng. Sau đó, Phạm AT đi về nhà trọ phường QH, thành phố CP, tỉnh QN. Hùng và XL ở lại trông giữ anh Lê VT. Hùng hỏi thì anh Lê VT nói cho biết trong thẻ ATM có khoảng gần 200.000.000 đồng. Sáng ngày 27/10/2018, Phạm AT đến nhà Hùng dùng lời nói đe dọa, yêu cầu anh Lê VT trả nợ L1 và O số tiền 590.000.000 đồng. Do sợ bị đánh nên anh Lê VT buộc phải nói trong thẻ Ngân hàng Techcombank của mình có 200.000.000 đồng, xin được trả trước. Phạm AT yêu cầu anh Lê VT cung cấp mật khẩu thẻ ATM của Ngân hàng Techcombank là “1075”, mật khẩu điện thoại di động và chỉ đạo Hùng hướng dẫn anh Lê VT viết lại giấy nhận nợ của L1 và O, xin trả trước 200.000.000 đồng vì giấy nhận nợ do anh Lê VT viết trước đó đã bị O đã cầm đi. Sau khi biết mật khẩu thẻ ATM của anh Lê VT thì Phạm AT đi ra cây ATM của Ngân hàng Techcombank tại cổng Trường Trung học cơ sở Suối Khoáng ở số 387, khu 8B, phường QH, thành phố CP, tỉnh QN để rút số tiền 20.000.000 đồng rồi đi khám bệnh ở tỉnh Bắc VG. Khoảng 17h00 ngày 27/10/2018, Phạm AT về đến thành phố CP và rút tiếp 30.000.000 đồng tại cây ATM cổng Trường Trung học cơ sở Suối Khoáng rồi đi về nhà Hùng. Lúc này, Hùng hướng dẫn anh Lê VT viết giấy với nội dung xin trả trước 200.000.000 đồng nhưng không có nội dung nhận tổng số nợ của L1 và O. Thấy vậy, Phạm AT cùng Hùng ép AT viết lại giấy nhận nợ số tiền 590.190.000 đồng của L1, O và xin trả trước 200.000.000 đồng. Thời điểm này, XL ở trong phòng ngồi trên giường, tai đeo máy nghe nhạc nên chỉ nhìn thấy Phạm AT và Hùng đang đọc cho anh Lê VT viết giấy nhận nợ, nội dung cụ thể như thế nào thì XL không biết và không tham gia. Trong thời gian anh Lê VT ở nhà Hùng thì O và L1 nhiều lần gọi điện thoại cho Phạm AT để chỉ đạo việc đòi tiền của anh Lê VT. Do đó, Phạm AT và Hùng liên tục đánh, chửi anh Lê VT; mang dao, thớt để trước mặt dọa nếu không nói mật khẩu thẻ ATM sẽ xử lý. Lê Thị XL không đánh nhưng chứng kiến Phạm AT cùng Hùng đánh và tham gia chửi anh Lê VT. Đến đêm 27/10/2018, Phạm AT thấy anh Lê VT đi tiểu tiện ra máu nên báo cho O biết thì O chỉ đạo đưa anh Lê VT về nhà anh Trần Đức Trọng (sinh năm 1982; trú tại xóm 12, xã Thái Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái VB2; là em họ của O) để mua thuốc cho anh Lê VT uống; sau đó lại đưa anh Lê VT về nhà Phạm AT để trông giữ.
Sáng ngày 28/10/2018, Phạm AT hướng dẫn Lê Thị XL ép anh Lê VT viết giấy tự nguyện ở lại nhà Hùng vào ngày 27/10/2018 và giấy tự nguyện giao thẻ ATM cho Phạm AT đi rút tiền trả nợ hộ anh Lê VT. Khi Phạm AT và Thủy đi ăn sáng về, XL đi mua cháo cho AT ăn. Khoảng 10h00 sáng cùng ngày, Phạm AT thuê 01 chiếc xe ô tô bán tải chở XL, Thủy đi cùng đưa anh Lê VT đi về nhà anh Trần Đức Trọng tại xã Thái Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái VB2 và nhờ anh Trọng mua thuốc cho anh Lê VT uống. Sau đó, Phạm AT cùng Thủy, XL đi về chơi tại nhà bà ngoại của Thủy ở thành phố Hải Phòng. Khi ở nhà anh Trọng, anh Lê VT đã kể lại cho anh Trọng nghe về việc bị Phạm AT đánh và chiếm đoạt tiền trong tài khoản Ngân hàng. Nghe xong, anh Trọng đã gọi điện thoại bảo O đến ngay để giải quyết. Khoảng 21h00 cùng ngày, Hoàng VB2 đi ô tô chở O và L1 đến nhà anh Trọng thì biết việc Phạm AT đã rút tiền trong tài khoản ATM của AT nên yêu cầu Phạm AT giao lại số tiền 50.000.000 đồng cho O và yêu cầu Phạm AT về tỉnh QN lấy toàn bộ đồ đạc, tài sản giao lại cho anh Lê VT. Do đã tối muộn nên Phạm AT cùng L1, O, VB2, XL và Thủy đến nhà nghỉ AT tại xã Thái Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái VB2 thuê phòng ngủ lại. Đến khoảng 05h00 ngày 29/10/2018, Phạm AT lái xe ô tô chở XL và Thủy; còn VB2 lái xe ô tô chở L1 đi theo Phạm AT về tỉnh QN. Khi về đến nơi, Phạm AT tiếp tục rút tổng số tiền 133.000.000 đồng từ tài khoản của anh Lê VT tại cây ATM của Ngân hàng Techcombank đặt trước cổng Nhà thi đấu thể dục thể thao tỉnh QN và cây ATM của Ngân hàng BIDV tại cổng Công ty Cổ phần chế tạo máy Vinacomim nhưng không nói cho L1 và O biết. Sau đó, Phạm AT về nhà trọ kiểm tra ví của anh Lê VT và giữ lại 03 viên đá màu trắng bọc trong tờ lịch; rồi đưa cho L1 toàn bộ giấy tờ tùy thân, kèm theo thẻ ATM Ngân hàng Techcombank của anh Lê VT để L1 mang về tỉnh Thái VB2.
Chiều ngày 29/10/2018, trong khi ở tại nhà anh Trọng thì anh Lê VT nói trong tài khoản còn tiền nên Hoàng VB2 đã lái xe chở L1, O và anh Lê VT ra Ngân hàng Techcombank - Chi nhánh Thái VB2 rút nốt số tiền 46.000.000 đồng để anh Lê VT trả nợ cho L1 và O. Sau đó, O và L1 yêu cầu anh Lê VT viết thêm nội dung tự nguyện trả cho L1 và O số tiền 96.000.000 đồng (trong đó có 50.000.000 đồng do Phạm AT đi rút từ cây ATM đưa cho O và 46.000.000 đồng vừa rút từ ngân hàng ở Thái VB2) vào tờ giấy anh Lê VT viết nhận nợ L1 và O 590.000.000 đồng đã viết trước đó. Khi anh Lê VT viết xong thì O đưa cho anh Lê VT 10.000.000 đồng, đưa cho L1 20.000.000 đồng, trả cho anh Trọng 15.000.000 đồng. Sau đó, VB2 lái xe chở anh Lê VT ra thả xuống bến xe khách Thái VB2 để đi xe khách từ tỉnh Thái VB2 về quận HĐ, Hà Nội. Ngày 29/10/2018, anh Lê VT đã đến khám và điều trị thương tích tại Quân y Viện 103 - HĐ. Ngày 30/10/2018, anh Lê VT đến Công an phường PL, quận HĐ, Hà Nội trình báo sự việc tại và đề nghị xử lý nhóm của O, L1, VB2, Phạm AT và XL theo pháp luật.
Trước đó, ngày 27/10/2018, chị Nguyễn Thị MP1 (là nhân viên của Công ty do anh Lê VT làm Giám đốc) nhận được tin nhắn từ máy điện thoại số 0984107579 của anh Lê VT nhắn đến số máy điện thoại di động số 0968816788 của chị Phương yêu cầu chuyển 30.000.000 đồng vào tài khoản Techcombank số 10722337573.01.4 (tài khoản của anh Lê AT). Chị Phương đã nhờ bạn là chị Mai Thị Phong Lan (sinh năm 1977; trú tại số nhà 155, phố Huỳnh Khương An, thành phố Vũng Tàu) chuyển hộ. Do không có tiền trong tài khoản nên chị Lan đã nhờ anh Mai Xuân Trang (em trai chị Lan) chuyển hộ bằng hệ thống Internetbanking. Do đó, số tiền trong tài khoản của AT là 229.000.000 đồng (khi ở tỉnh Thái VB2, anh Lê VT kiểm tra tài khoản mới biết). Đến ngày 28/10/2018, chị Phương không liên lạc qua điện thoại được với anh Lê VT nên đã đến trình báo tại Công an phường PL, quận HĐ, Hà Nội về việc anh Lê VT bị mất tích từ ngày 26/10/2018.
Ngày 30/10/2018, sau khi tiếp nhận tin báo tố giác của anh Lê VT, Công an quận HĐ, Hà Nội đã lập biên bản xem xét dấu vết trên thân thể xác định tại thời điểm đó trên cơ thể anh Lê VT không có dấu vết thương tích. Cơ quan điều tra đã xác minh tại Quân y Viện 103, xác định: Lúc 21 giờ 50 phút ngày 29/10/2018, anh Lê VT nhập viện trong tình trạng: Tỉnh, tiếp xúc tốt, không sốt, da niêm mạc VB2 thường, nhịp tim đều, tự thở thỏa đáng. Bụng chướng mềm, không thấy điểm đau khu trú, khung chậu vững, ép bửa khung chậu không đau. Sưng nề bầm tím vùng đỉnh trái. Chụp X- quang không thấy hình ảnh tổn thương bụng ngực, cột sống thắt lung.
Từ ngày 02 - 04/11/2018, các đối tượng Phạm AT, Võ Sơn L1, Nguyễn Thị O, Hoàng VB2, Nguyễn Văn Hùng và Lê Thị XL bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội bắt về hành vi Bắt, giữ người trái pháp luật và Cướp tài sản theo trình báo của anh Lê VT.
Vật chứng vụ án Quá trình xác minh, điều tra vụ án, Cơ quan điều tra đã thu giữ tang vật chứng liên quan gồm:
- Hồi 16h30 phút ngày 02/11/2018, tại trụ sở Phòng Cảnh sát hình sự Công an thành phố Hà Nội, đã khám và thu giữ của Lê Thị XL: 05 túi nilon chứa tinh thể màu trắng; 01 túi nilon chứa 04 viên nén hình tròn màu hồng; 01 túi nilon chứa 02 viên nén hình tròn màu xanh lá cây và 02 viên nén hình trụ màu xanh nước biển;
01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus màu xám, có số Imei 353292076859400 gắn sim điện thoại số 0368610626.
- Hồi 09h30 phút ngày 03/11/2018, Cơ quan điều tra khám xét tại số nhà 628, phố Đặng Châu Tuệ, phường QH, thành phố CP, tỉnh QN đã thu giữ của Phạm AT:
01 khóa số 8 và 01 chìa mở khóa số 8 cùng 01 giấy hẹn nợ ngày 27/11/2018; 01 giấy trả nợ ngày 27/11/2018; 01 giấy xác nhận nợ; 01 giấy bán điện thoại; 01 đơn tự nguyện ở lại ngày 28/11/2018 đều đứng tên anh Lê VT; 01 giấy ủy quyền ghi ngày 26/11/2018 đứng tên Võ Sơn L1; 03 viên dạng hạt cứng màu trắng được bọc trong một tờ giấy lịch, khi thu giữ đã niêm phong theo quy định; 01 gói nilon bên trong có chất bột màu trắng, khi thu giữ đã niêm phong theo quy định; 01 lắc kim loại màu vàng, 01 dây chuyền kim loại màu vàng, 01 nhẫn kim loại màu vàng, 01 đồng hồ kim loại màu vàng, khi thu giữ đã niêm phong theo quy định; 01 điện thoại Iphone 7 plus, màu đen đã qua sử dụng, 04 sim điện thoại và 01 ví da màu nâu cũ đã qua sử dụng. Riêng đối với chiếc điện thoại di động hiệu Samsung do Phạm AT chiếm đoạt của anh Lê VT, do Phạm AT để quên tại nhà nghỉ ở Thái VB2 nên không thu hồi được.
- Hồi 09h35 phút ngày 03/11/2018, tại trụ sở Phòng Cảnh sát hình sự Công an thành phố Hà Nội, đã thu giữ của Hoàng VB2: 01 xe ôtô hiệu HuynDai Accent màu đỏ, đã qua sử dụng, biển kiểm soát 15A-35883, số máy G4FAAU053450, số khung 41CBBU000726 và 01 đăng ký xe ôtô biển kiểm soát 15A-35883 và 01 giấy phép lái xe số 220173014907 mang tên Hoàng VB2; 01 giấy chứng nhận kiểm định xe ôtô biển kiểm soát 15A-35883 cùng 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe ôtô biển kiểm soát 15A-35883 và 03 giấy chứng nhận bảo hiểm tự nguyện của chủ xe ôtô gồm các số: 0107127, 0107128 và 0107129.
- Hồi 11h30 phút ngày 03/11/2018 tại trụ sở Phòng Cảnh sát hình sự Công an thành phố Hà Nội, đã thu giữ của Nguyễn Thị O: 01 giấy liệt kê các khoản anh Lê VT nợ L1, O; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu trắng đã qua sử dụng, số Imei 359263063195821, có lắp sim số 0868496762 cùng 01 giấy vay tiền đề ngày 26/11/2018, nội dung anh Lê AT nợ O và L1 590.000.000 đồng và tự rút tiền trả trước cho O 96.000.000 đồng cùng 01 giấy liệt kê các khoản anh Lê VT nợ L1, O và 01 giấy hóa đơn thanh toán nhà hàng Sinh thái.
Tại bản kết luận giám định số 8579/KLGĐ-PC09 ngày 09/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận về các vật chứng thu giữ như sau:
“… - Đối với những chất thu giữ của Lê Thị XL:
+ Tinh thể màu trắng bên trong 05 túi nilon có tổng khối lượng 0,855 gam đều là ma túy loại Methamphetamine.
+ 04 viên nén hình tròn màu hồng bên trong 01 túi nilon có tổng khối lượng 0,411 gam đều là ma túy loại Methamphetamine.
+ 02 viên nén hình tròn màu xanh lá cây có tổng khối lượng 0,625 gam đều là ma túy loại MDMA.
+ 02 viên nén hình trụ màu xanh nước biển có tổng khối lượng 0,562 gam đều là ma túy loại MDMA.
- Đối với chất thu giữ khi khám xét nhà Phạm AT: Chất bột màu trắng bên trong 01 túi nolon là ma túy Heroine, khối lượng 0,911 gam”.
Tại bản kết luận giám định số 1118/C09(P4) ngày 18/3/2019 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: “… 03 viên đá thu giữ trong quá trình khám xét nơi ở của Phạm AT đều là đá Cubic Zirconia, có tổng khối lượng 0,92 gam”.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 145/2019 ngày 11/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Đống Đa, Hà Nội kết luận:
“… - 03 viên đá Cubic giá 15.000 đồng.
- Điện thoại Iphone 7 plus đã qua sử dụng giá 6.000.000 đồng.
- 01 ví da đã qua sử dụng giá 50.000 đồng.
- Đối với chiếc điện thoại Sam sung không thu giữ được, không xác định được đời máy nên không định giá được”.
Tại bản kết luận giám định số 1276/KLGĐ-PC09(Đ4) ngày 04/3/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận:
“… - Chữ viết, chữ ký đứng tên Lê VT trên các tài liệu gồm: Giấy hẹn nợ ngày 27/11/2018; giấy trả nợ ngày 27/11/2018; giấy xác nhận nợ; giấy bán điện thoại; đơn tự nguyện ở lại ngày 28/11/2018 cùng 01 giấy vay tiền đề ngày 26/11/2018 nội dung anh Lê VT nợ O, L1 590.000.000 đồng và tự rút tiền trả trước cho O 96.000.000 đồng và 01 giấy liệt kê các khoản anh Lê VT nợ L1, O là chữ viết, chữ ký của anh Lê VT.
- Chữ viết đứng tên Võ Sơn L1 trên giấy ủy quyền đề ngày 26/11/2018 không phải là chữ viết của Võ Sơn L1”.
Tại bản kết luận giám định số 2836/KLGĐ-PC09 (Đ4) ngày 13/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận: “… Chữ viết đứng tên Võ Sơn L1 trên giấy ủy quyền đề ngày 26/11/2018 là chữ viết của Nguyễn Thị O”.
Tại Cơ quan điều tra, anh Lê VT khai tổng số tiền bị chiếm đoạt trong tài khoản là 229.000.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Iphone7Plus, 01 điện thoại di động hiệu Sam sung cùng số tiền trong ví khoảng 30.000.000 đồng và giấy tờ tùy thân.., thẻ ngân hàng... Ngoài ra, anh Lê VT còn khai bị Phạm AT cướp 30.000.000 đồng mặt và 03 viên kim cương trị giá 250.000 USD để trong ví. Về nguồn gốc 03 viên kim cương, anh Lê VT khai mua khi đi du lịch ở nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào vào năm 2005 hoặc năm 2008. Tuy nhiên, kết quả tra cứu xuất, nhập cảnh của AT xác định trước năm 2011, AT không xuất cảnh ra nước ngoài. Cơ quan điều tra yêu cầu nhưng anh Lê VT không xuất trình được giấy tờ, hóa đơn mua bán 03 viên kim cương. Quá trình điều tra, đã thu giữ được tại nơi ở của Phạm AT 03 viên đá Cubic Zirconia trị giá 15.000 đồng. Phạm AT khai nhận đã lấy 03 viên đá đó trong ví của anh Lê VT rồi cất giấu tại nơi ở, không mang đi đâu cho đến khi bị Cơ quan Công an thu giữ; các đối tượng L1, O, Hùng và XL không biết việc này. Phạm AT trình bày chỉ chiếm đoạt khoảng 3.000.000 đồng trong ví của anh Lê VT. Căn cứ tài liệu điều tra, hiện không đủ căn cứ kết luận Phạm AT đã cướp 03 viên kim cương và 30.000.000 đồng như lời khai của anh Lê VT.
Đối với đối tượng Trần Đức Trọng (tức Trọng “vịt”), kết quả điều tra xác định Trọng là em họ Nguyễn Thị O, đã có lần O đưa anh Lê VT về nhà Trọng để tìm mua viên gia bảo. Ngày 28/10/2018, anh Lê VT được Phạm AT đưa về nhà Trọng thì Trọng đã cho anh Lê VT ăn uống, không có hành động gì với anh Lê VT. Trọng không biết và không tham gia việc bắt giữ AT để đòi nợ và ép trả nợ cùng với nhóm của L1, O và Phạm AT. Căn cứ vào các tài liệu điều tra, không đủ cơ sở xác định Trọng đồng phạm với nhóm L1, O về các hành vi bắt, giữ người trái pháp luật và cướp tài sản. Do đó, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với Trọng.
Đối với Trần Thị Thủy (bạn gái Phạm AT), kết quả điều tra xác định Thủy là chủ tài khoản do Phạm AT chuyển số tiền rút từ thẻ ATM của anh Lê VT. Thủy khai chỉ đứng tên tài khoản cho VT, sau đó giao lại cho Phạm AT tài khoản, thẻ ATM và thông tin về tài khoản và Thủy không sử dụng tài khoản này. Ngày 8/11/2018, Thủy đã tự nguyện rút số tiền 27.750.000 đồng từ tài khoản giao nộp cho Cơ quan điều tra. Thủy khai trong các ngày 26 -28/10/2018, biết anh Lê VT ở tại nhà Phạm AT nhưng không biết mục đích ở lại, không chứng kiến anh Lê VT bị đánh, bị ép buộc, không tham gia bàn bạc để chiếm đoạt tiền của anh Lê VT. Căn cứ tài liệu điều tra, không đủ cơ sở xác định Thủy đồng phạm với nhóm L1, O và Phạm AT về các hành vi bắt, giữ người trái pháp luật và cướp tài sản. Do đó, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với Thủy.
Đối với đối tượng Lê TY (là người quen và có mối quan hệ làm ăn với O), kết quả điều tra xác định khi được O nhờ liên lạc hộ để tìm anh Lê VT, TY đã chỉ giúp O địa điểm liên lạc gặp anh Lê VT. TY không biết mục đích O tìm anh Lê VT, không tham gia việc bắt giữ và cướp tài sản của anh Lê VT. Căn cứ các tài liệu điều tra, không đủ cơ sở xác định TY đồng phạm với nhóm L1, O, Phạm AT về các hành vi bắt, giữ người trái pháp luật và Cướp tài sản. Do đó, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với TY.
Đối với Nguyễn Văn K1 (tức Khánh, là người đã chỉ đường cho Nguyễn Thị O đến chỗ ở của anh Lê VT). Tại Cơ quan điều tra, K1 khai có mối quan hệ xã hội với O. Khi O gọi điện thoại nhờ chỉ đường đến khu đô thị VQ, quận HĐ, Hà Nội để tìm người quen, K1 đã giúp đưa O đến nơi. K1 không biết mục đích nhóm O, L1 bắt, giữ anh Lê VT và K1 không tham gia. Căn cứ các tài liệu điều tra, không chưa đủ cơ sở xác định K1 đồng phạm với nhóm L1, O, Phạm AT về các hành vi bắt, giữ người trái pháp luật và cướp tài sản. Do đó, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với K1.
Cơ quan điều tra đã xác minh tại xóm 8, xã Thái Sơn, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái VB2 đối với ông Nguyễn NT1về nội dung mua bán viên gia bảo (thiên thạch) của anh Lê VT và nhóm L1, O. Tuy nhiên, hiện sức khỏe của ông NT1 rất yếu, chưa tiến hành làm việc được nên không xác định được bản chất vụ việc. Cơ quan điều tra đã tách rút tài liệu liên quan để tiếp tục xác minh, khi có căn cứ sẽ xem xét, xử lý sau.
Đối với nguồn gốc số ma túy thu giữ của Phạm AT và Lê Thị XL: Tại Cơ quan điều tra, VT và XL đều khai mua của đổi tượng không quen biết để sử dụng. Ngoài lời khai của VT và XL thì không có tài liệu khác nên Cơ quan điều tra đã tách tài liệu liên quan đến các đối tượng đã bán ma túy cho VT và XL để xác minh, xử lý sau.
Đối với các đồ vật đã thu giữ khi khám xét tại nhà Phạm AT gồm: 01 lắc kim loại màu vàng, 01 dây chuyền kim loại màu vàng, 01 nhẫn kim loại màu vàng và 01 đồng hồ kim loại màu vàng. Kết quả điều tra xác định số tài sản trên là của Trần Thị Thủy (bạn gái của Phạm AT) và không liên quan đến vụ án. Do đó, Cơ quan điều tra đã quyết định xử lý vật chứng, trả lại số tài sản trên cho chị Trần Thị Thủy.
Ngày 11/02/2020, Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã xét xử sơ thẩm đối với bị cáo Phạm AT về tội Bắt giữ người trái pháp luật, tội Cướp tài sản và tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 2 Điều 157, khoản 4 Điều 168 và khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự; xét xử các bị cáo Võ Sơn L1 và Nguyễn Thị O về tội Bắt, giữ người trái pháp luật và tội Cướp tài sản theo quy định tại khoản 2 Điều 157 và khoản 4 Điều 168 Bộ luật Hình sự; xét xử bị cáo Nguyễn Văn Hùng về tội Giữ người trái pháp luật và tội Cướp tài sản theo quy định tại khoản 2 Điều 157 và khoản 4 Điều 168 Bộ luật Hình sự; xét xử bị cáo Hoàng VB2 về tội Bắt người trái pháp luật theo quy định tại khoản 2 Điều 157 Bộ luật Hình sự.
Đối với Lê Thị XL, trong giai đoạn kết thúc điều tra vụ án, chuẩn bị truy tố, bị can XL đã bỏ trốn khỏi nơi cư trú và Cơ quan điều tra đã quyết định truy nã nhưng không bắt được. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định tạm đình chỉ bị can đối với XL. Ngày 14/4/2021, Lê Thị XL bị bắt truy nã theo quyết định truy nã của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội.
Tại bản cáo trạng số 145/CT-VKS-P2 ngày 07/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội truy tố: Bị cáo Lê Thị XL về tội " Giữ người trái pháp luật" và tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm a khoản 2 Điều 157 và điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, Bị cáo Lê Thị XL khai nhận hành vi cùng đồng phạm giữ anh Lê VT trái pháp luật. XL còn có hành vi tàng trữ 1,187 gam ma túy MDMA và 1,266 gam Methamphetannine để sử dụng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội luận tội đối với bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lê Thị XL về tội " Giữ người trái pháp luật" và tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm a khoản 2 Điều 157 và điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo và xem xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát đề nghị:
Áp dụng: điểm a khoản 2 Điều 157 và điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Lê Thị XL từ 36- 42 tháng tùvề tội "Giữ người trái pháp luật" và 24-30 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 05 - 06 năm tù.
Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy bị thu giữ; tịch thu xung công quỹ nhà nước một điện thoại di động.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] - Về tố tụng: Quyết định tố tụng của các Cơ quan điều tra Công an thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, qui định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] - Về nội dung: Căn cứ vào lời khai của Lê Thị XL, lời khai của Võ Sơn L1, Nguyễn Thị O, Phạm AT, Nguyễn Văn Hùng, Hoàng VB2, lời khai của người bị hại anh Lê VT cùng các tài liệu có trong hồ sơ có đủ căn cứ kết luận: Khoảng tháng 5 năm 2018 giữa anh Lê VT và nhóm Võ Sơn L1, Nguyễn Thị O cùng Phạm AT có quan hệ hợp tác góp vốn làm ăn kinh tế nhưng không thành công. L1 và O cho rằng anh Lê VT còn nợ 590.190.000 đồng nên nhiều lần tìm AT nhưng không gặp. Do có thông tin về việc anh Lê VT đang ở khu đô thị VQ, phường PL, quận HĐ, thành phố Hà Nội nên khoảng 4 giờ 00 phút ngày 26/10/2018, Võ Sơn L1 cùng Nguyễn Thị O và Phạm AT đã thuê Hoàng VB2 điều khiển xe ô tô Huyndai màu đỏ BKS 15A – 358.83 đi từ QN về quận HĐ để bắt giữ Lê VT nhằm mục đích đòi nợ. Đến khoảng 10 giờ 00 phút ngày 26/10/2018 VB2 cùng O, L1 và Phạm AT đến quận HĐ thì được người quen là Nguyễn Văn K1 dẫn về quán Cafe Việt ở tầng 1 – CT7B khu đô thị VQ, phường PL, quận HĐ, thành phố Hà Nội để gặp Lê VT. Khi đến nơi VB2 cùng Phạm AT, Võ Sơn L1 và Nguyễn Thi O có hành vi đánh, bắt anh Lê VT lên xe ô tô để đưa về tỉnh QN. Trên đường về các đối tượng đã ép, đe dọa và Phạm VT Anh đã lục túi của Lê VT lấy số tài sản gồm: 01 điện thoại Iphone 7 trị giá 6.000.000 đồng và 01 điện thoại Samsung (Hiện không thu giữ nên không xác định được giá trị). Sau đó, tất cả đưa anh Lê VT về nhà trọ của anh Phạm AT tại số nhà 628 đường Đặng Châu Tuệ, khu phố 1, phường Quảng Hanh, thành phố CP, tỉnh QN để giữ, đánh và đòi nợ. Tại đây, O cùng L1 và Phạm AT có hành vi uy hiếp và dùng vũ lực để ép anh Lê VT phải viết giấy nhận nợ số tiền 590.100.000 đồng và viết giấy ủy quyền cho Phạm AT đòi anh Lê VT số tiền trên. Sau đó L1 và O chỉ đạo Phạm AT cùng Nguyễn Văn Hùng và Lê Thị XL giữ anh Lê VT từ ngày 26/10/2018 đến ngày 29/10/2018 tại phòng trọ trên và tại nhà của Nguyễn Văn Hùng ở phường Quảng Hanh, thành phố CP, tỉnh QN và nhà của anh Trần Đức Trọng ở thôn Vũ Thanh Đoài, xã Thái Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái VB2. Ngày 28/10/2018 theo sự chỉ đạo của Phạm AT, XL đã hướng dẫn anh Lê VT viết giấy tự nguyện ở lại, giấy xác nhận xin xuống nhà anh Phạm VT ở QN có mang theo 01 thẻ ngân hàng Techcombank trong có 199.300.000 đồng để lại cho anh Phạm AT để trả nợ. Quá trình trông giữ anh Lê VT thì XL biết anh Phạm VT đã dùng khóa số 8 để khóa tay anh Lê VT; thấy Hùng bảo anh Lê VT viết giấy nợ nhưng không rõ nội dung cụ thể. Khi bắt giữ XL, cơ quan điều tra đã phát hiện thu giữ của XL số ma túy gồm 1,187 gam ma túy loại MDMA và 1,266 gam loại Methamphetannine do XL mua để sử dụng cho bản thân.
[3] Hành vi của bị cáo Lê Thị XL đã phạm vào tội " Giữ người trái pháp luật" và tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm a khoản 2 Điều 157 và điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo không có thẩm quyền nhưng đã có hành vi cấu kết, tổ chức cùng nhau để bắt, giữ anh Lê VT trái pháp luật, Bị cáo Lê Thị XL tham gia giữ người trái pháp luật với vai trò đồng phạm giúp sức tích cực. Lê Thị XL có hành vi tàng trữ trái phép 1,187 gam ma túy loại MDMA và 1,266 gam loại Methamphetannine. Sau khi phạm tội bị cáo lại bỏ trốn. Cho nên đối với bị cáo cần áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc mới có tác dụng cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.
Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cũng xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ như bị cáo khai báo thành khẩn, nhân thân chưa có tiền án tiền sự để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.
[4] Đối với Võ Sơn L1, Nguyễn Thị O, Phạm AT, Nguyễn Văn Hùng, Hoàng VB2 đã bị xét xử tại bản án số 46/2020/HSST ngày 11/02/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Đã được giải quyết bằng bản án 46/2020/HSST ngày 11/02/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ của Lê Thị XL:
- 05 túi nilon chứa tinh thể màu trắng, 01 túi nilon chứa 04 viên nén hình tròn màu hồng, 01 túi nilon chứa 02 viên hình tròn màu xanh lá cây và 2 viên nén hình trụ màu xanh nước biển được niêm phong trong 01 phong bì, trên mép phòng bì có chữ ký của đối tượng Lê Thị XL, giám định viên Nguyễn Văn Hà, không kiểm tra bên trong và 01 sim trong điện thoại. Đây là vật chứng vụ án nên cho tịch thu tiêu hủy.
- 01 điện thoại di động Iphone màu xám có Imei 353393076859400 là điện thoại bị cáo sử dụng vào phạm tội nên cho tịch thu xung công quỹ Nhà nước.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[8] Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt:
Tuyên bố: Lê Thị XL phạm tội " Giữ người trái pháp luật" và tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 157 và điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 55; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Lê Thị XL 02 năm tù về tội "Giữ người trái pháp luật"; 03 năm tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 05 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/4/2021. Được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/11/2018 đến ngày 02/4/2019.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015;
* Tịch thu tiêu hủy: 05 túi nilon chứa tinh thể màu trắng, 01 túi nilon chứa 04 viên nén hình tròn màu hồng, 01 túi nilon chứa 02 viên hình tròn màu xanh lá cây và 2 viên nén hình trụ màu xanh nước biển được niêm phong trong 01 phong bì, trên mép phòng bì có chữ ký của đối tượng Lê Thị XL, giám định viên Nguyễn Văn Hà, không kiểm tra bên trong và 01 sim trong điện thoại.
* Tịch thu xung công quỹ nhà nước: 01 điện thoại di động kiểu dáng Iphone màu xám có Imei 353393076859400 (Máy đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng).
Số vật chứng hiện ở kho vật chứng Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/02/2020.
3. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí lệ phí Tòa án.
Bị cáo Lê Thị XL phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử sơ thẩm công khai, có mặt các bị cáo; vắng mặt người bị hại. Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 164/2021/HS-ST ngày 01/06/2021 về tội giữ người trái pháp luật và tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 164/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về