Bản án 164/2020/HNGĐ-ST ngày 22/07/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 164/2020/HNGĐ-ST NGÀY 22/07/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 22 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 504/2020/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 5 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 198/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 6 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 94/2020/QĐST-HNGĐ, ngày 09 tháng 7 năm 2020; giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Hồng L, sinh năm 1997 (có mặt) HKTT: Tổ dân phố Đ, Phường Q, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình. Tạm trú: Ấp R, xã M, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

Bị đơn: Ông Nguyễn Minh D, sinh năm 1992 (vắng mặt) HKTT: 57/4 Khu phố 4, đường HT42, Phường Hiệp Thành, Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh.

Tạm trú: Ấp R, xã M, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 15/5/2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hồng L trình bày:

Về hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Minh D cưới nhau vào năm 2015 và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Hiệp Thành, Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 21/8/2015. Vợ chồng chung sống hạnh phúc khoảng 5 năm thì thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống và ông D có tình cảm với người phụ nữ khác. Nay bà xét thấy tình cảm vợ chồng giữa bà và ông D không còn nên yêu cầu ly hôn với ông D.

Về nuôi con chung: Bà và ông D có một con chung tên Nguyễn Minh Đăng, sinh ngày 19/01/2018. Khi ly hôn, bà yêu cầu được nuôi con, yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà và ông D không có tài sản chung và không có nợ chung.

Bị đơn ông Nguyễn Minh D vắng mặt và không cung cấp bất cứ tài liệu, chứng cứ nào có liên quan đến vụ án nên Tòa án không tiến hành hòa giải được.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, qua thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Bà Nguyễn Thị Hồng L khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Minh D. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

[1.2] Bị đơn ông Nguyễn Minh D đã được Tòa án thông báo và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để tham gia vụ án nhưng đều vắng mặt. Căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông D.

[2] Về nội dung tranh chấp:

[2.1] Về hôn nhân: Xét thấy hôn nhân giữa bà L và ông D là hợp pháp. Sau một thời gian chung sống thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nay bà L xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa nên yêu cầu ly hôn. Sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt cho ông D các văn bản tố tụng để tham gia vụ án. Tuy nhiên, ông D đều vắng mặt và không gửi cho Tòa án văn bản nêu ý kiến của mình về yêu cầu khởi kiện của bà L. Từ đó, cho thấy ông D cũng không có thiện chí để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Điều đó chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa bà L và ông D đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà L.

[2.2] Về nuôi con chung: Bà L và ông D có một con chung tên Nguyễn Minh Đăng, sinh ngày 19/01/2018. Xét thấy, hiện cháu Đăng dưới 36 tháng tuổi, cần sự chăm sóc của người mẹ nên căn cứ vào Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, giao cháu Đăng cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

[2.3] Về phần cấp dưỡng nuôi con: Bà L yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật. Căn cứ Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung sau khi ly hôn không chỉ là nghĩa vụ của cá nhân bà L mà còn là nghĩa vụ của ông D. Bà L là người trực tiếp nuôi con nên buộc ông D phải cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Căn cứ Công văn số 24/1999/CV-KHXX ngày 17/3/1999 của Tòa án nhân dân Tối cao thì người không trực tiếp nuôi con có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng bằng 1/2 mức lương tối thiểu chung do Nhà nước quy định; căn cứ Điều 3 của Nghị định số 38/2019/NĐ-CP ngày 09/5/2019 của Chính phủ, mức lương tối thiểu chung được áp dụng hiện nay là 1.490.000 đồng/tháng. Như vậy, ông D có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 745.000 đồng. Thời gian cấp dưỡng kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật đến khi cháu Đăng đủ 18 tuổi.

[2.4] Về tài sản chung, nợ chung: Bà L trình bày không có tài sản chung và không có nợ chung. Ông D vắng mặt và không có văn bản nêu ý kiến về vấn đề này nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu có tranh chấp thì sẽ giải quyết bằng vụ án khác khi có đơn yêu cầu.

[3] Về án phí: Bà Nguyễn Thị Hồng L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp và quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Hồng L về việc "Ly hôn" với ông Nguyễn Minh D.

1. Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Hồng L được ly hôn với ông Nguyễn Minh D.

2. Về nuôi con chung: Bà Nguyễn Thị Hồng L và ông Nguyễn Minh D có một con chung tên Nguyễn Minh Đăng, sinh ngày 19/01/2018. Khi ly hôn, bà L được nuôi cháu Đăng. Ông D có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 745.000 đồng. Thời gian cấp dưỡng kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi cháu Đăng đủ 18 tuổi.

Bên không nuôi con được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con chung, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên đương sự, Toà án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con theo luật định. Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3.Về án phí: Bà Nguyễn Thị Hồng L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0005343 ngày 29/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Bà L đã nộp đủ án phí. Ông D phải nộp 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

Án xử sơ thẩm công khai, bà Nguyễn Thị Hồng L được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Nguyễn Minh D được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

378
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 164/2020/HNGĐ-ST ngày 22/07/2020 về ly hôn

Số hiệu:164/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:22/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về