Bản án 163/2020/HS-ST ngày 24/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 163/2020/HS-ST NGÀY 24/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 11 năm 2020, tại Hội trường xét xử - Trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 148/2020/HSST ngày 22 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 358/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Vũ Văn T, sinh ngày 25/6/1985 tại T. Nơi cư trú: Thôn T, xã H, huyện Đ, tỉnh Q; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; con ông Vũ Văn Q, sinh năm 1955 và bà Dương Thị H, sinh năm 1952 (đều còn sống); gia đình có 02 anh em, T là con thứ 02; có vợ là Nguyễn Thị K, sinh năm 1989 và có 02 con (con lớn sinh năm 2009, con bé sinh năm 2011); tiền án, tiền sự, nhân thân: có 01 tiền án đã được xóa; Án số 377 ngày 23/12/2011, Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh xử 06 năm 06 tháng tù về tội “Vận chuyển trái phép vật liệu nổ”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/8/2011. Ra tù ngày 31/8/2015. Đã thi hành án phí ngày 23/12/2011; bị tạm giữ 30/7/2020, tạm giam ngày 03/8/2020; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ ngày 30/7/2020, T đi xe khách từ nhà ở huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh đến thành phố Hải Phòng để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Khi đến chân Cầu Bính thuộc quận Hồng Bàng, T xuống xe và đi xe ôm của một nam giới không quen biết đến khu vực đường tàu Cầu Đất. T và người xe ôm đi theo đường tàu Cầu Đất về phía chắn tàu khu vực Mê Linh được khoảng 100m thì người xe ôm dừng xe đứng chờ, còn T đi bộ thêm 10m thì gặp và mua heroine của một người nam giới không quen biết với số tiền 100.000 đồng. Người nam giới nhận tiền và đưa cho T 01 gói giấy màu trắng. T cất giấu gói ma túy trên vào gấu tay áo bên phải rồi quay lại chỗ người lái xe ôm đứng chờ. Sau đó, người xe ôm chở T đi về, khi đến khu vực ngã tư Cầu Đất - Hai Bà trưng - Lương Khánh Thiện, T bảo người nam giới dừng xe để T mua xi lanh sử dụng ma túy. T xuống xe, đi bộ về phía hiệu thuốc tại khu vực trước cửa nhà số 02 đường Hai Bà Trưng thì bị lực lượng Công an phường Trại Cau, quận Lê Chân kiểm tra bắt giữ cùng vật chứng và đưa T về trụ sở công an phường lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang. Ngoài ra, công an còn thu giữ của T số tiền 35.000 đồng.

Tại Bản Kết luận giám định số 473/KLGĐ ngày 03/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất bột màu trắng trong 01 gói giấy thu giữ của Vũ Văn T gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,11 gam, là loại Heroine.

Tại cơ quan cảnh sát điều tra, Vũ Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu ở trên.

Tại Bản Cáo trạng số 167/CT-VKS ngày 20/10/2020, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng truy tố bị can Vũ Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Qua xem xét đánh giá chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra, cùng lời khai nhận của bị cáo, lời khai của người làm chứng. Tại phiên tòa đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân giữ nguyên quan điểm truy tố bị can Vũ Văn T theo tội danh cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vũ Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Vũ Văn T với mức hình phạt từ 15 (mười lăm) tháng đến 18 (mười tám) tháng tù.

Xét điều kiện, hoàn cảnh gia đình của bị cáo, nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đối với phong bì có số niêm phong số 473/2020/PC09 đựng vỏ bao gói và số ma túy còn lại sau giám định, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 35.000 đồng, Cơ quan CSĐT – Công an quận Lê Chân thu giữ được xác định là tài sản riêng của bị cáo, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả lại cho bị cáo.

Bị cáo Vũ Văn T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghỉ nghị án, bị cáo trình bày nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm đã thực hiện và mong muốn được sự khoan hồng của pháp luật, được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra - Công an quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên; Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện.

- Về tội danh:

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo Vũ Văn T như đã nêu ở trên là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy; vi phạm Điều 3 Luật phòng, chống ma túy; lời khai về hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, cùng với tang vật chứng đã được thu giữ trong vụ án. Căn cứ vào các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Bản kết luận giám định số 473/KLGĐ-MT ngày 03/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Vũ Văn T, cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Lê Chân gửi giám định là ma túy có khối lượng là 0,11 gam là loại Heroine nằm trong danh mục quy định tại Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.

Từ những phân tích trên và quan điểm truy tố của Viện Kiểm sát tại phiên tòa, đủ cơ sở kết luận bị cáo Vũ Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

- Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

[3] Xét bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, chưa có tiền sự, có 01 tiền án đã được xóa theo quy định pháp luật; bị cáo không có tình tiết tăng nặng, tại Cơ quan điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo khi quyết định hình phạt được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy Hội đồng xét xử xét cần cho bị cáo T được hưởng tình tiết giảm nhẹ như đã nêu là hoàn toàn có căn cứ, nên chấp nhận.

- Về hình phạt áp dụng:

[4] Xét tội phạm mà bị cáo thực hiện là nghiêm trọng, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm, nên cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn mới tương xứng với hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo và buộc bị cáo phải cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định đủ để răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Điều Bộ luật Hình sự thì tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ngoài hình phạt chính, bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Xét bị cáo không có việc làm, hoàn cảnh gia đình bị cáo có 02 con còn nhỏ, trên cơ sở quan điểm đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, nên Hội đồng xét xử cần miễn áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng:

[6] Cơ quan công an thu giữ của bị cáo T 01 gói giấy chứa chất bột màu trắng được kết luận giám định là Heroine có khối lượng 0,11 gam xác định là vật Nhà nước cấm lưu hành và vật dùng chứa chất ma túy, cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Trả lại số tiền 35.000 đồng Cơ quan công an thu giữ của T, nhưng tạm giao Chi cục thi hành án Dân sự quận Lê Chân quản lý để đảm bảo thi hành án đối với khoản tiền án phí bị cáo phải nộp.

[8] Đối với người nam giới bán ma túy cho Vũ Văn T và người đàn ông đi xe ôm chở T, tài liệu điều tra của Cơ quan CSĐT - Công an quận Lê Chân hiện không xác định được căn cước, lai lịch, nên không có căn cứ xử lý.

[9] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy quy định của pháp luật.

 Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Vũ Văn T 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 30/7/2020.

2. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong có số niêm phong 473/2020/PC09 trong chứa chất ma túy Heroine đã giám định thu giữ của bị cáo, theo biên bản giao nhận vật chứng đã chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng ngày 20/10/2020.

- Trả lại số tiền 35.000 đồng Cơ quan công an thu giữ của T, nhưng tạm giao Chi cục thi hành án Dân sự quận Lê Chân quản lý để đảm bảo thi hành án đối với khoản tiền án phí bị cáo phải nộp.

3. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Vũ Văn T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án đựơc thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi thành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành dân sự đựơc thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 163/2020/HS-ST ngày 24/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:163/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về