TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 163/2020/HS-PT NGÀY 12/03/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 12 tháng 3 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 81/TLPT-HS ngày 14 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Thị Th do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 99/2019/HS-ST ngày 29 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Thị Th, sinh năm 1966 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 23/3 H2, Phường K, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 2/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn B (chết) và bà Nguyễn Thị K(chết); có chồng tên Nguyễn Bá D và 03 con (lớn nhất sinh năm 1984, nhỏ nhất sinh năm 2000); Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo tại ngoại - Có mặt.
Người bào chữa:
Bà Trần Ngọc Châu là luật sư của Văn phòng luật sư Ngọc Châu thuộc đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Th - Có mặt.
Bị hại:
Bà Trương Cẩm D – Sinh năm: 1980.
Địa chỉ: 377/74A C8, Phường K, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh - Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Các ông, bà Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị M, Nguyễn Thị Th và Nguyễn Văn Ng là anh, chị, em ruột; giữa các ông bà đang có mâu thuẫn liên quan đến giấy tờ căn nhà số 23/3 đường H2, Phường K, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh do cha mẹ là ông Phạm Văn B (chết) và bà Nguyễn Thị K(chết) để lại.
Khoảng 10 giờ 00 ngày 01/02/2018, bà Nguyễn Thị H đến ngoài hẻm tại (trước nhà 23/51A đường H2, Phường K, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh) gần nhà bà Nguyễn Thị M (là em gái bà H) để nói về việc giấy tờ liên quan đến căn nhà số 23/3 đường H2, Phường K, Quận G,. Lúc này, ông Ng chạy xe máy từ ngoài đụng vào người bà H làm bà H té ngã, giữa ông Ng và bà H xảy ra xô xát, hai bên đánh nhau bằng tay không; chị Trương Cẩm D (con gái bà H) thấy vậy liền cầm 01 mâm bằng inox lao vào định đánh ông Ng thì bị bà M dùng tay gạt chị D ra, làm chiếc mâm rơi xuống đất; D nắm tóc và túi áo bà M, bà M dùng tay cào vào mặt chị D; Th từ trong nhà đi ra cầm chiếc chày gỗ dài khoảng 21cm đánh vào trán chị D gây thương tích, nhằm chị D và bà M không đánh nhau nữa, buông tay ra; anh Nguyễn Quốc Nhị Thiên (con trai của Th) chạy từ trong ra, cầm cây sắt dài khoảng 67cm nhằm hù dọa chị D, nhưng không đánh chị D. Sự việc được mọi người can ngăn, những người bị thương tích đến Bệnh viện cấp cứu, điều trị. Vụ việc được Công an Phường 12, Quận 10 lập hồ sơ ban đầu, sau đó chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều tra, làm rõ.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 137/TgT.18 ngày 16/3/2018 của Trung tâm pháp y - Sở y tế Tp. Hồ Chí Minh kết luận: Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên cho bị hại Trương Cẩm D hiện tại là 08% Ngày 18/6/2018, Trung tâm pháp y- Sở Y tế thành phố Hồ Chí Minh có công văn số 137-GT/TgT.18 về việc giải thích kết luận giám định đương sự Trương Cẩm D:
+ Vùng đầu có tỷ lệ 00% (Không phần trăm). Móng tay không gây ra được.
+ Vùng trán có tỷ lệ 02 % (Hai phần trăm.) Móng tay không gây ra được thương tích này.
+ Vùng dưới mắt phải có tỷ lệ 02% và các vết còn lại có tỉ lệ 01% (Một phần trăm) mỗi vết. Móng tay có thể gây ra các vết thương này.
Ngày 01/02/2018, chị Trương Cẩm D có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự về hành vi gây ra thương tích cho chị D.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 99/2019/HS-ST ngày 29-11-2019 của Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh đã Quyết định:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 134; điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51; của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Th 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.
Ngoài ra bản án còn giải quyết phần dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
Ngày 12/12/2019, bị cáo Nguyễn Thị Th có đơn kháng cáo đề nghị xem xét lại toàn bộ Bản án sơ thấm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thay đổi nội dung kháng cáo xin được áp dụng chế định án treo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng tội danh đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Tuy nhiên, giữa bị cáo và bị hại có quan hệ dì cháu, bị hại cũng có một phần lỗi là xô xát với bà M; bị cáo hiện có bệnh và đã lớn tuổi, trước phiên tòa đã khắc phục thiệt hại. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm cho bị cáo được hưởng án treo, với thời gian thử thách là 01 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Luật sư Trần Ngọc Châu bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Th trình bày: Đồng ý về tội danh và khung hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt. Tuy nhiên, luật sư bổ sung một số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để Hội đồng xét xử xem xét như: Tại phiên tòa phúc bị cáo thể hiện sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; có nhân thân tốt hiện đang điều trị bệnh tim. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự, quyết định mức hình phạt nhẹ nhất tại khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự và cho bị cáo được hưởng án treo.
Bị cáo không bào chữa bổ sung và không tham gia tranh luận. Bị hại không tham gia tranh luận.
Lời nói sau cùng: Bị cáo xin xem xét giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Th làm trong thời hạn luật định là hợp lệ nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án cấp phúc thẩm.
[2] Căn cứ lời khai của bị cáo Nguyễn Thị Th và bị hại Trương Cẩm D tại phiên tòa phúc thẩm, cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định: Khoảng 10 giờ 00 phút, ngày 01/02/2018, tại nhà số 23/3 đường H2, Phường K, Quận G, bị cáo Nguyễn Thị Th vì muốn can ngăn việc xô xát giữa bà Nguyễn Thị M và bị hại Trương Cẩm D nên đã sử dụng 01 chày gỗ dài khoảng 21cm đánh 01 cái vào phần đầu của bị hại D gây thương tích với tỉ lệ thương tật là 2%, thuộc trường hợp “dùng hung khí nguy hiểm” để thực hiện hành vi phạm tội. Bản án sơ thẩm số 99/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134, điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Th 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo của bị cáo Nguyễn Thị Th, Hội đồng xét xử nhận thấy: Trước phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã tự nguyện nộp tạm ứng số tiền 5.360.000 đồng để đảm bảo thi hành phần trách nhiệm dân sự đối với bị hại Trương Cẩm D; quá trình xét hỏi, tranh tụng công khai tại phiên tòa bị cáo thể hiện sự thành khẩn, ăn năn, hối cải. Xét đây là tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên Hội đồng xét xử phúc thẩm ghi nhận, áp dụng. Do bị cáo bị xét xử về tội phạm ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng và hiện đang điều trị bệnh tim mạch nên Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xem xét, áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 cho bị cáo được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách nhất định để bị cáo có cơ hội tự cải tạo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
[4] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Th và sửa bản án sơ thẩm.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6] Bị cáo Nguyễn Thị Th không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự;
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Th và sửa bản án sơ thẩm. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 134; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Th 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” nhưng cho bị cáo được hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Thị Th cho Ủy ban nhân dân Phường K, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. (Đã giải thích chế định án treo).
Bản án 163/2020/HS-PT ngày 12/03/2020 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 163/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/03/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về