TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
BẢN ÁN 163/2017/HSPT NGÀY 19/12/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 148/2017/HSPT ngày 26/10/2017 đối với bị cáo Nguyễn Văn Đ, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, do bản án hình sự sơ thẩm số 212/2017/HSST ngày 22/9/2017 của Toà án nhân dân thành phố H.
Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Văn Đ; sinh ngày 02/02/1987 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố 13, thị trấn C, huyện X, tỉnh Hà Tĩnh; chỗ ở: Thôn 4, xã V, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 12/12; con ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1962 và bà Đặng Thị H, sinh năm 1964; vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1985, có 01 con 4 tuổi; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 30/3/2017, cho đến nay. Có mặt.
Quá trình nhân thân: Lúc nhỏ ở với cha mẹ đi học. Năm 2005 học xong lớp 12/12, tiếp tục học đại học. Năm 2011 lập gia đình, sinh sống tại thôn 4, xã V, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế cho đến ngày gây án.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn Đ: Ông Hoàng A– Luật sư Công ty Luật TNHH Đ – thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Thừa Thiên Huế. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 24/3/2017, tại Bến xe thành phố V, tỉnh Nghệ An, Nguyễn Văn Đ mua của 01 đối tượng không rõ lai lịch 01 gói ma túy với giá 14.000.000đồng rồi mang về thành phố H chia làm nhiều gói nhỏ để bán lại. Từ ngày 24/3/2017 đến 30/3/2017 Đ nhiều lần bán ma túy cho nhiều đối tượng thu được 10.000.000 đồng. Trong đó xác định được Đ đã 02 lần bán cho Dương Thành L (sinh năm 1991, trú tại 34/24 Lương Văn C, phường A, thành phố H) 02 gói ma túy với giá 5.100.000đồng. Lần 1 tại đường Bùi Thị X vào ngày 26/3/2017; lần hai tại khu vực cầu Vượt Thủy D vào ngày 30/3/2017.
Vào lúc 17 giờ 20 phút ngày 30/3/2017, Nguyễn Văn Đ điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 75H1- 414.55 (chủ xe là chị Nguyễn Thị H (vợ Đ), sinh năm 1985, trú tại thôn 4, xã V, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế) đến trước số nhà 130 đường Hoàng Thị L, phường An T, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế với mục đích để bán ma túy cho những đối tượng sử dụng ma túy thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H phát hiện và bắt quả tang, thu giữ trong túi xách của Đ 01 gói ma túy. Tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Đ tại thôn 4, xã V, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế, Cơ quan Công an đã thu giữ của Đ 09 gói ma túy (được niêm phong ký hiệu gói A1).
Tại bản Kết luận giám định số 106/GĐ ngày 01/4/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thừa Thiên Huế, kết luận:
Mẫu tinh thể rắn màu trắng trong gói ni lông thu giữ khi bắt quả tang và trong 09 gói thu khi khám xét đều có Methamphetamine, có tổng trọng lượng lần lượt 3,7252gam (Ba phẩy bảy hai năm hai gam) và 3,2228gam (Ba phẩy hai hai hai tám gam).
Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT 67, Nghị định 82/2013/NĐ-CP, ngày 19/7/2013 của Chính Phủ.
Về vật chứng thu giữ: Ngoài số ma túy nêu trên còn thu giữ:
- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia đã qua sử dụng.
- 10.000.000 đồng (tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam).
- 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 75H1- 414.55.
Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô biển kiểm soát 75H1-414.55 cho chị Nguyễn Thị H, các vật chứng còn lại giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 212/2017/HSST ngày 22/9/2017 của Tòa án nhân dân thành phố H đã áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; điểm o, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 07 (bảy) năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt tạm giữ là ngày 30/3/2017.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, về án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 05/10/2017, bị cáo Nguyễn Văn Đ có Đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lí do Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.
Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Đ, vì cho rằng bị cáo có hoàn cảnh gia đình có con còn nhỏ, do bạn bè rủ rê nên phạm tội.
Tại phiên tòa phúc thẩm Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế cho rằng từ khi thụ lý vụ án cho đến nay, Tòa án đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự, Viện kiểm sát không có kiến nghị gì. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Đ, cũng như đề nghị của Luật sư và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Do cần tiền tiêu xài cá nhân nên ngày 24/3/2017, tại Bến xe thành phố V, tỉnh Nghệ An, Nguyễn Văn Đ mua 01 gói ma túy với giá 14.000.000đồng rồi mang về thành phố H chia làm nhiều gói nhỏ để bán lại. Từ ngày 24/3/2017 đến 30/3/2017 Nguyễn Văn Đ nhiều lần bán ma túy cho nhiều đối tượng thu được số tiền 10.000.000đồng. Sau đó bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H bắt quả tang và thu giữ trong túi xách của Đ 01 gói ma túy với mục đích để bán. Khám xét nơi ở của Đ tại thôn 4, xã V, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế, thu giữ được 09 gói ma túy với mục đích để bán. Qua giám định các chất thu giữ khi bắt quả tang và tại nhà của Nguyễn Văn Đ đều có Methaphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, Số thứ tự 67 của Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính Phủ. Tổng trọng lượng chất ma túy Nguyễn Văn Đ mua để bán là 6,9480gam.
Với hành vi nêu trên, Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2]. Xét kháng cáo của bị cáo Đ thấy rằng: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi mua bán chất ma túy của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố tình thực hiện.
Hành vi phạm tội của bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, sự phát triển lành mạnh của con người; là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn khác của xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 07 năm tù là đã xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không có bổ sung tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới. Do vậy, không thể chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo và đề nghị của Luật sư mà cần giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm như lời đề nghị của Đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở.
[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
[4]. Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo Đ phải chịu theo luật định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 248 của Bộ luật tố tụng hình sự;
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Đ và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; điểm o, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ, 07 (bảy) năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày 30/3/2017.
Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu 200.000đồng.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 163/2017/HSPT ngày 19/12/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 163/2017/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thừa Thiên Huế |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/12/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về