Bản án 162/2021/HS-PT ngày 16/04/2021 về tội giết người

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 162/2021/HS-PT NGÀY 16/04/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 16 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm, công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 914/2020/TLPT-HS ngày 27 tháng 10 năm 2020 do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 49/2020/HS-ST ngày 14/09/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ.

* Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đức T, sinh ngày 01/5/1988; giới tính: Nam; nơi sinh: Huyện LT, tỉnh Phú Thọ; nơi đăng ký NKTT: Khu 3, xã CX, huyện LT, tỉnh Phú Thọ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Minh Q, sinh năm 1961 và bà Quách Thị X, sinh năm 1964; vợ là Ngô Thị Bích Th, sinh năm 1988; có 01 con sinh năm 2012. Bị cáo không có tiền án, tiền sự; bị bắt, tạm giữ từ ngày 15/2/2020; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Phú Thọ. Có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo:

Bà Vũ Thị Hải - Luật sư Công ty Luật TNHH một thành viên Vũ Hải, đoàn Luật sư tỉnh Phú Thọ. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 19 giờ 10 phút ngày 13/02/2020, sau khi cùng nhau uống bia xong, Nguyễn Đức T - sinh năm 1988; Cao Mạnh H - sinh năm 1988, đều trú tại xã CX, huyện LT, tỉnh Phú Thọ và Triệu Việt A - sinh năm 1973, trú tại: Khu 5, phường Gia Cẩm, thành phố VT, tỉnh Phú Thọ cùng đi đến quán Karaoke Thanh Thảo ở Khu 3, phường VP, thành phố VT, do Hoàng Thị Thanh Th - sinh năm 1992, hộ khẩu ở khu 3, xã Vĩnh Chân, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phủ Thọ làm chủ. Khoảng 20 phút sau, có một nhóm thanh niên khác đến quán hát gồm 06 người là Kiều Xuân Ch - sinh năm 1975, trú tại: Khu 4, xã PN, huyện PN, tỉnh Phú Thọ; Phan Văn Giáo - sinh năm 1978, trú tại: Khu 7, xã TĐ, thành phố VT; Phạm Văn Qu - sinh năm 1975 và Phạm Khắc Th1 - sinh năm 1999, đều trú tại: Khu 2, phườngVP; Đào Văn L - sinh năm 1980, trú tại: Khu 6, xã Kim Đức và Phạm Huy Tân - sinh năm 1975, trú tại: Khu 8, xã PN. Khi đến quán, 06 người này ngồi cạnh bàn của nhóm T.

Khoảng 10 phút sau, Đào Văn L sang bàn uống bia giao L với nhóm của T, H và Việt A rồi quay về bàn. Sau đó khoảng 20 phút, PH Khắc Th1 sang uống bia giao L thì xảy ra mâu thuẫn, cãi chửi nhau với Việt A do khi uống bia Việt A nhổ nước bọt xuống đất, Th1 cho rằng Việt A coi thường mình nên đã cầm chai bia định đánh Việt A nhưng được mọi người can ngăn. Lúc này, L cũng đi sang bàn của T, L nói với T là khi L sang mời bia, T cũng không tôn trọng L, vì T chỉ ngồi nghịch điện thoại. Sau đó L bảo T sang bàn của nhóm L đang ngồi để uống bia. Khi T đi sang mời bia thì bị L túm gáy áo ghì xuống bàn và nói “Mày không tôn trọng tao”, khi L buông tay ra thì T rất bực tức nhưng vẫn uống hết cốc bia rồi quay về bàn của mình ngồi.

Theo lời khai của T thì khi ngồi uống bia tại bàn của mình, T nghe thấy nhóm 06 người nói chuyện là T có thái độ láo và có ý định muốn đánh. Đồng thời thấy Th1 đi ra ngoài nên T nghĩ rằng Th1 đi gọi thêm người để đánh T. Thấy vậy, T đã đi một mình về phòng trọ cách quán khoảng 500m, lấy con dao nhọn, dài 32cm (kiểu dao mèo) được đựng trong vỏ dao làm bằng gỗ mầu đen và cất giấu vào trong người, tại vị trí sát nách, dọc theo ống tay áo bên trái, rồi quay lại quán ngồi, mục đích để nếu bị tấn công, T sẽ dùng dao để chống lại.

Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, nhóm của Ch đứng dậy đi ra cửa quán để về, chỉ còn lại L và Qu ở trong quán để thanh toán tiền. Nhưng do không có tiền thanh toán, chị Th không cho nợ tiền nên L và Qu đã xảy ra tranh cãi với chị Th, L đã tát vào mặt chị Th rồi đi ra sát cửa, chị Th chửi L và yêu cầu L phải xin lỗi, lúc này Ch đã lao từ cửa vào tranh cãi, xô đẩy chị Th. Thấy vậy, T đến bênh vực chị Th, dẫn đến việc Ch và T xô sát với nhau. Ch lao vào đánh T, hai người đánh nhau và vật lộn làm bàn ghế bị xô đổ, chai bia trên bàn vỡ, thủy tinh bắn vung vãi khắp nền nhà. T đã dùng tay phải rút dao từ trong người ra cầm dao theo tư thế nghịch (mũi dao hướng phía dưới lòng bàn tay, lưỡi dao hướng phía trong người, chuôi dao đè giữa ngón cái và ngón trỏ), đâm bổ từ trên xuống dưới, liên tiếp nhiều nhát vào tay, vai, đầu và ngực anh Ch, dẫn đến anh Ch chết ngay tại chỗ. Sau đó T bỏ chạy, bị rơi vỏ dao lúc nào không biết. Chạy được khoảng 100m thì T gọi điện thoại cho 113. Sau đó, T giấu dao trên mái nhà của người dân ở trong ngõ 43, phố Lê Đồng, rồi T bắt taxi trốn đi đến nhà bạn gái là chị Đào Thị H - sinh năm 1989, ở xã Chiềng Sơn, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Phú Thọ đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi. Kết quả khám nghiệm tử thi xác định:

- Anh Ch bị đâm nhiều nhát: Vùng đỉnh bên trái có 01 vết rách da không rõ hình kích thước 3,5x1,5cm, chiều hướng từ dưới lên trên, từ trái qua phải, bờ mép tương đối sắc gọn; vùng cung lông mày mắt bên trái có 01 vết rách da dạng dọc, kích thước 3,5x0,5cm, chiều hướng từ trên xuống dưới, từ ngoài vào trong; vùng gò má bên trái có 01 vết xây sát da, rách da, kích thước 3,5x0,2cm; vùng sống mũi bên trái có vết rách da nằm chếch chéo, kích thước 4,5x0,5cm, chiều hướng từ ngoài vào trong, từ phải sang trái, bờ mép sắc gọn; vùng má bên trái có vết xây sát da, kích thước 5x0,2cm; sau vành tai bên phải có vết xây sát da kích thước 2,5x0,2cm, vết thương cách gốc vành tai bên phải 2,5cm; vùng cổ và cằm có các vết xây sát da nằm trên diện 8x1cm; vùng ngực bên phải có vết rách da hình elip, kích thước 4,5x0,2cm, đầu phía trên tù, đầu phía dưới sắc nhọn, vết thương này dẫn đến đứt hoàn toàn xương sườn số 2 bên phải, tụ máu bao màng ngoài tim, rách mặt trước bao ngoài màng tim, rách cung động mạch chủ, rách tĩnh mạnh chủ trên; vùng mặt ngoài 1/3 trên cánh tay trái có vết rách da kích thước 3,5x1cm, cách vết này về phía sau 5cm có một vết rách da, kích thước 2x0,5cm, tất cả các vết trên đều có bờ mép sắc gọn; vùng vai bên trái có vết rách da, kích thước 5x1,5cm, vết cách xương cột sống về phía trong 8,5cm.

Căn cứ tài liệu chứng cứ thu thập được, ngày 14/02/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Phú Thọ đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra Quyết định truy nã đối với Nguyễn Đức T. Đến 21h ngày 14/02/2020 thì T bị Cơ quan công an bắt giữ khi đang ở nhà chị Đào Thị H, tại xã Chiềng Sơn, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.

Tại Biên bản xem xét dấu vết thân thể đối với Nguyễn Đức T xác định: T có 3 vết xước da tại cạnh dưới (lòng) bàn tay phải: vết 1 dài 1cm nằm ngang cạnh bàn tay, vết 2 dài 0,2cm, vết 3 dài 0,3cm, vết 2 và 3 cùng trên 1 đường thẳng song song với vết 1.

Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Phú Thọ đã trưng cầu giám định xác định nguyên nhân chết của anh Kiều Xuân Ch. Tại kết luận số: 55/PC09-PY, ngày 11/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ kết luận: “Nguyên nhân chết của Kiều Xuân Ch là: Mất máu không phục hồi do rách cung động mạch chủ và tĩnh mạch chủ trên”.

Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định nước tiểu, nồng độ cồn trong máu của anh Kiều Xuân Ch. Tại kết luận số: 263/KLGĐ, ngày 20/02/2020; số 264 ngày 25/2/2020 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ, kết luận: Trong mẫu máu của tử thi Kiều Xuân Ch có cồn (ethanol) nồng độ cồn trong máu là 291,765miligam/ l00mililit máu; trong mẫu nước tiểu của tử thi Kiều Xuân Ch không có chất ma túy.

Ngày 19/02/2020 Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Phú Thọ đã ra quyết định trưng cầu Viện khoa học hình sự - Bộ Công an tiến hành giám định Gen (ADN) đối với: Mẫu máu thu giữ tại nền quán Karaoke Thanh Thảo (ở vị trí số 7); mẫu máu thu trên chiếc dép tổ ong được thu giữ tại hiện trường (ở vị trí số 11); mẫu máu thu trên quần và áo thu giữ của Nguyễn Đức T; mẫu máu trên dao nhọn thu được; mẫu máu thu của Nguyễn Đức T và mẫu máu thu của tử thi Kiều Xuân Ch. Tại kết luận số 965/C09-TT3, ngày 13/3/2020 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an, kết luận: Mẫu máu thu giữ trên nền quán Karaoke ở vị trí số 7, mẫu máu thu trên chiếc dép tổ ong, mẫu máu thu trên quần và áo của Nguyễn Đức T đều là máu của tử thi Kiều Xuân Ch; mẫu máu thu trên con dao thu giữ của Nguyễn Đức T có dính máu người và là máu của tử thi Kiều Xuân Ch.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Đức T đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của bản thân. Lời khai của T phù hợp với lời khai của Cao Mạnh H và chị Hoàng Thị Thanh Th cùng các tài liệu, chứng cứ khác. Gia đình bị cáo đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 80.000.000 đồng trước khi xét xử sơ thẩm.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2020/HS-ST ngày 14-9-2020, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ đã quyết định:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức T phạm tội: “Giết người”.

Điều luật áp dụng và mức hình phạt: Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 39 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức T tù chung thân. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 15/02/2020.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Đức T.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 18/9/2020, bị cáo Nguyễn Đức T có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Nguyễn Đức T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội, bị cáo cho rằng bị anh Ch tấn công trước, không còn đường lùi nên mới gây án, nên không có tính chất côn đồ. Gia đình bị cáo nộp 01 bản sao Kỷ niệm chương mang tên bố bị cáo nhưng kỷ niệm chương không được xem xét là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đối với bản sao huân chương, bảng gia đình vẻ vang: Hội đồng xét xử không có căn cứ xác định người có tên trong những tài liệu này là ông, bà nội của bị cáo như bị cáo khai nhận.

- Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa: Bản thân bị cáo chưa có tiền án tiền sự, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với chứng cứ trong hồ sơ vụ án, bị cáo không có tình tiết tăng tặng trách nhiệm hình sự, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo và gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả số tiền 80.000.000đ (tám mươi triệu đồng) nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, hành vi của bị cáo đặc biệt nghiêm trọng, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ bị cáo dùng dao đâm nhiều nhát vào người người bị hại mặc dù tại phiên tòa hôm nay, bị cáo cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ bố bị cáo được tặng kỷ niệm chương nhưng tình tiết trên không đủ để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, đề nghị giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

- Người bào chữa cho bị cáo có quan điểm: Bị cáo đã tự bào chữa, trình bày đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ mới, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm bào chữa của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét công khai và tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm hôm nay phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, lời khai của chính bị cáo và người làm chứng, bản kết luận giám định; vật chứng đã thu giữ... Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận:

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 13/2/2020, tại quán hát Karaoke Thanh Thảo ở Khu 3, phường VP, thành phố VT, do bực tức và xô sát với Kiều Xuân Ch nên bị cáo Nguyễn Đức T đã dùng dao dài 32 cm, lưỡi nhọn bằng kim loại dài 19cm đâm nhiều nhát vào vùng mặt, vùng đầu, tay, bả vai và vùng ngực của anh Kiều Xuân Ch làm anh Ch gục ngã và tử vong ngay tại chỗ. Như vậy, giữa người bị hại và bị cáo không có mâu thuẫn nghiêm trọng nào từ trước, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt trong sinh hoạt nhưng bị cáo đã không tự kiềm chế, chủ động về nhà chuẩn bị hung khí và quyết liệt thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy, bản án sơ thẩm kết án bị cáo về tội “Giết người” với tình tiết định khung hình phạt là “có tính chất côn đồ” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự có khung hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình là chính xác, đúng pháp luật. Quan điểm tự bào chữa của bị cáo về việc hành vi phạm tội không có tính chất côn đồ không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo về việc xin giảm nhẹ hình phạt: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo và gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả số tiền 80.000.000đ (tám mươi triệu đồng), là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và đã được bản án sơ thẩm áp dụng đúng và đủ. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới.

Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo đã phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, cố ý tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật, gây mất mát, đau thương cho gia đình nạn nhân, ảnh hưởng nghiêm trọng tình hình trị an, gây tâm lý hoang mang, bức xúc cho nhân dân trên địa bàn. Hình phạt tù chung thân mà bản án sơ thẩm đã áp dụng với bị cáo là thỏa đáng, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Vì vậy, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội về việc không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo và giữ nguyên mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Nguyễn Đức T phải chịu án phí phúc thẩm hình sự theo quy định tại Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phí tòa án ban hành kèm theo.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Đức T.

2. Giữ nguyên quyết định về hình phạt tại bản án hình sự sơ thẩm số 49/2020/HS-ST ngày 14 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ: Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 39 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức T tù chung thân về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 15/02/2020.

3. Bị cáo Nguyễn Đức T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

313
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 162/2021/HS-PT ngày 16/04/2021 về tội giết người

Số hiệu:162/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về