Bản án 162/2020/HNGĐ-ST ngày 26/03/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 162/2020/HNGĐ-ST NGÀY 26/03/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 26 tháng 3 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 62/2019/TLST - HNGĐ ngày 06 tháng 02 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2020/QĐXX-ST ngày 02 tháng 3 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Bùi Quang D – Sinh năm 1980 HKTT và trú tại: K, quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị T – Sinh năm 1980 HKTT: P, quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.

Hiện đang chấp hành án phạt tù tại Phân trại K3 – Trại Giam Thanh Xuân – Bộ Công An.

Tại phiên tòa: Anh D có mặt, chị T vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và các bản tự khai, biên bản hòa giải nguyên đơn là anh Bùi Quang D trình bày:

Anh và bị đơn là chị Nguyễn Thị T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, cú tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình ngày 02/12/2004, cả hai anh chị đều kết hôn lần đầu. Sau khi kết hôn anh chị sống cùng nhau tại địa chỉ số G, quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 10/2013 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, cách sống, công việc có sự khác nhau nên hai vợ chồng ít có sự quan tâm chia sẻ với nhau. Năm 2016 chị T bị Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử về tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng” và bị kết án 13 năm tù hiện đang phải thi hành án tại Trại giam Thanh Xuân. Trong thời gian đó anh D cho rằng vợ chồng phát sinh mâu thuẫn căng thẳng, trầm trọng bản thân anh bị ảnh hưởng tâm lý rất lớn, tài chính bị suy K, áp lực cuộc sống đè nặng và hiện anh phải nuôi hai con nhỏ. Nay anh D xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị T.

- Về con chung: Anh D xác nhận anh chị có 02 con chung là Bùi Thành K, sinh ngày 22/10/2005 và Bùi Nh, sinh ngày 15/12/2013. Ly hôn anh D xin nuôi cả hai con chung và chị T hiện đang phải chấp hành án phạt tù, anh D không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho anh D.

- Về tài sản chung, nhà đất ở chung, về nợ chung : Anh D xác nhận anh và chị T không có tài sản chung, không có nhà đất ở chung và không nợ ai hay cho ai vay nợ nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết các vấn đề gì khác.

Quá trình giải quyết vụ án do bị đơn là chị Nguyễn Thị T đang phải chấp hành án phạt tù tại Phân trại K3, Trại giam Thanh Xuân, Tòa án đã tiến hành các thủ tục tố tụng đối với chị T; Chị T có bản tự khai và có ý kiến như sau: Chị và anh Bùi Quang D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại UBND Phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình ngày 02/12/2004, cả hai đều kết hôn lần đầu. Sau khi kết hôn chị và anh D chung sống tại G, phường Khương Trung, quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, trong quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn do chị bị kết án theo bản án số 716/2016/HSPT ngày 27/12/2016 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội với mức án 13 năm tù và hiện chị đang chấp hành án tại Phân trại số 3 trại giam Thanh Xuân, nay anh D xin ly hôn chị đồng ý.

-Về con chung: Chị T xác nhận anh chị có 02 con chung là Bùi Thành K, sinh ngày 22/10/2005 và Bùi Nh, sinh ngày 15/12/2013. Vì hiện hay chị đang chấp hành án nên chị đồng ý để anh D trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung và chị không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho anh D.

-Về tài sản chung, nhà ở chung, nợ chung: Chị T xác nhận anh chị không có tài sản chung, không có nhà ở chung, không có nợ chung, ngoài ra chị T không có yêu cầu gì khác.

* Tại phiên tòa.

Anh D vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với chị T vì anh D cho rằng mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài trầm trọng từ nhiều năm, hiện nay chị T đang phải chấp hành hình phạt tù với thời gian 13 năm nên vợ chồng không thể hàn gắn được mâu thuẫn để đoàn tụ gia đình, tình cảm vợ chồng không còn nữa, mục đích hôn nhân không đạt được, anh D cần phải ổn định cuộc sống để nuôi hai con chung nên anh đề nghị xin được ly hôn với chị T.

Ly hôn, anh D xin được nuôi cả hai con chung là cháu Bùi Thành K, sinh ngày 22/10/2015 và cháu Bùi Nh, sinh ngày 15/12/2013, anh không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng tiền nuôi con.

Về tài sản chung, nhà ở chung, nợ chung: Anh D xác nhận anh chị không có.

Về các vấn đề khác anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn là chị Nguyễn Thị T vắng mặt tại phiên tòa vì đã có đơn xin xét xử vắng mặt, chị T có bản tự khai đồng ý ly hôn với anh D.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

+ Về tố tụng: Tại phiên tòa chị T vắng mặt vì hiện nay chị đang chấp hành án tại trại giam, trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, chị T đó có đơn xin hòa giải và xét xử vắng mặt. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị T.

+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự: Thẩm phán đã tuân thủ pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.

Hội đồng xét xử đã tuân thủ nghiêm túc các quy định, thủ tục tại phiên tòa đảm bảo quyền và nghĩa vụ của đương sự tham gia tranh tụng. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng tuân thủ đúng quy định tại các Điều 70, 71, 72, 73, 234 Bộ luật tố tụng dân sự. Xét mâu thuẫn của anh D chị T đã kéo dài, trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, chị T cũng đồng ý ly hôn. Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Bùi Quang D đối với chị Nguyễn Thị T. Về con chung: Giao cả hai con chung là Bùi Thành K, sinh ngày 22/10/2015 và Bùi Nh, sinh ngày 15/12/2013 cho anh Bùi Quang D trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chị Nguyễn Thị T cho đến khi cả hai con chung trưởng thành hoặc khi có sự thay đổi khác. Chị T có quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được cản trở.

Tại phiên tòa anh Bùi Quang D xác nhận không có tài sản chung, nhà ở chung, nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị HĐXX không xem xét. Các vấn đề khác không có nên không xét.

Về án phí: Anh Bùi Quang D phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Xét đơn khởi kiện của anh Bùi Quang D xin ly hôn đối với chị Nguyễn Thị T là quan hệ tranh chấp về Hôn nhân gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ điểm a, khoản 1, Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì anh Bùi Quang D và chị Nguyễn Thị T cùng có hộ khẩu thường trú tại số G, quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.

[2] Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật, bị đơn là chị Nguyễn Thị T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, chị T có bản tự khai, đơn đề nghị xin vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án và xét xử. Căn cứ khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

[3] Về nội dung:

* Về quan hệ hôn nhân: Anh Bùi Quang D và chị Nguyễn Thị T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, cú tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Trần Lãm, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình ngày 02/12/2004, đây là hôn nhân hợp pháp. Nay anh D đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị T do mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành các thủ tục tố tụng đối với chị T, chị T có bản tự khai về thời gian kết hôn, quá trình chung sống, nguyên nhân mâu thuẫn, quan điểm về con chung, tài sản, nhà ở chung. Chị T đồng ý ly hôn với anh D và có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt chị. Hội đồng xét xử nhận thấy: Căn cứ vào lời khai của anh D, chị T và các chứng cứ, tài liệu do Tòa án thu thập được thể hiện mâu thuẫn vợ chồng anh chị đã kéo dài, trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, chị T đang phải chấp hành án phạt tù trong trại giam nên vợ chồng không thể đoàn tụ để cùng nhau xây dựng gia đình hòa thuận, hạnh phúc, chị T cũng đồng ý ly hôn do vậy giải quyết cho anh D được ly hôn với chị T là hoàn toàn có căn cứ. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Bùi Quang D với chị Nguyễn Thị T.

* Về con chung: Anh Bùi Quang D và chị Nguyễn Thị T có hai con chung là Bùi Thành K, sinh ngày 22/10/2005 và Bùi Nh, sinh ngày 15/12/2013. Nay do chị T đang phải chấp hành án phạt tù tại Trại giam, cháu Bùi Thành K có đơn trình bày nguyện vọng xin được ở với anh D, để đảm bảo quyền lợi của các con nên giao cho anh Bùi Quang D trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chị Nguyễn Thị T cho đến khi cả hai con chung trưởng thành hoặc khi có sự thay đổi khác.

*Về tài sản chung, nhà ở chung, nợ chung: Anh D, chị T xác nhận không có; Ngoài ra anh chị không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

* Về án phí: Anh D phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của phỏp luật.

 Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: - Khoản 1 điều 28; Điều 35; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 271; Điều 273; Điều 278; Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

- Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 và tiểu mục 1.1 mục 1 điểm I phần A Danh mục án phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của anh Bùi Quang D đối với chị Nguyễn Thị T. Anh Bùi Quang D được ly hôn với chị Nguyễn Thị T.

2.Về con chung: Giao hai con chung là cháu Bùi Thành K, sinh ngày 22/10/2005 và cháu Bùi Nh, sinh ngày 15/12/2013 cho anh Bùi Quang D trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho chị Nguyễn Thị T cho đến khi cả hai con chung đủ tuổi trưởng thành hoặc khi có sự thay đổi khác. Chị T được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nhà ở chung và nợ chung: Anh Bùi Quang D và chị Nguyễn Thị T không có nên không xét.

4. Về các vấn đề khác: Anh Bùi Quang D và chị Nguyễn Thị T không yêu cầu nên không xét..

5. Về án phí: Anh Bùi Quang D phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Được trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí anh D đã nộp theo biên lai số AA/2016/0006806 ngày 06/02/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.

Án xử công khai sơ thẩm, anh D có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 162/2020/HNGĐ-ST ngày 26/03/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:162/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Xuân - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về