Bản án 162/2020/HNGĐ-ST ngày 15/10/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÁ THƯỚC, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 162/2020/HNGĐ-ST NGÀY 15/10/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 142/2020/TLST- HNGĐ ngày 28 tháng 07 năm 2020 về: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 21/2020/QĐST- HNGĐ ngày 28 tháng 09 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Hà Thị Ph - Sinh năm: 1991 Hộ khẩu thường trú: Thôn Muỗng Do, xã Điền Trung, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa. ( Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 25/8/2020 ).

Bị đơn: Anh Lê Văn H - Sinh năm: 1985 Hộ khẩu thường trú: Thôn Muỗng Do, xã Điền Trung, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và bản tự khai ngày 30/07/2020 chị Hà Thị Ph trình bày:

Chị với anh Lê Văn H đến với nhau trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn vào năm 2011 t¹i UBND xã Điền Trung, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa. Quá trình vợ chồng chung sống thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh H không chịu khó làm ăn, thường ghen tuông vô cớ. Mỗi khi anh H đi uống rượu về hay chửi bới sỷ nhục, đánh đập chị nhiều lần. Lần gần đây nhất là vào cuối tháng 10 năm 2019 chị đi làm công ty xin nghỉ làm về thăm con, anh H đi uống rượu về tìm chuyện chửi bới xúc phạm đánh đập chị khiến mẹ chồng chị và anh trai chồng phải vào căn ngăn. Hiện tại vợ chồng chị đã ly thân nhau 8 tháng nay không ai quan tâm đến ai. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục tình trạng hôn nhân như hiện nay, nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn  anh Lê Văn H.

- Về con chung: Trong thời gian chung sống vợ chồng chị có 01 con chung tên là Lê Gia Hào - sinh ngày 02/9/2016. Nguyện vọng của chị là xin được trực tiếp nuôi cháu Lê Gia Hào, không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

- Về tài sản: Chị Ph không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo thụ lý và triệu tập hợp lệ anh Lê Văn H đến Tòa án để làm bản tự khai nhưng anh H vắng mặt nên không có lời khai của anh H trong hồ sơ vụ án. Tòa án cũng đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ cho các bên đương sự, nhưng anh H không có mặt nên tòa án đã thông báo kết quả kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ cho anh H theo khoản 3 điều 210 BLTTDS. Chị Ph đề nghị không tiến hành hoà giải nên Toà án không tiến hành hoà giải. Đây là trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 4 điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh H cũng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, chị Ph đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên căn cứ điều 227, điều 228, điều 238 Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị Ph, anh H.

Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Tòa án đã tuân thủ đúng quy định về trình tự thủ tục của Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị HĐXX áp dụng điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho chị Ph được ly hôn anh H. Về con cái giao cháu Lê Gia Hào - sinh ngày 02/9/2016 cho chị Ph trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến tuổi thành niên, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con cho bên nào. Về tài sản: Chị Ph không yêu cầu giải quyết nên miễn xét. Về án phí: Chị Ph phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Chị Hà Thị Ph và anh Lê Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn năm 2011 tại UBND xã Điền Trung, huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa và không vi phạm các điều 9, 10 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, là hôn nhân hợp pháp và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo khoản 1 điều 28 BLTTDS. Trong cuộc sống hôn nhân, vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn.

Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm, thiếu tin tưởng nhau và nghi ngờ lẫn nhau trong lĩnh vực tình cảm. Vợ chồng không khắc phục được nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Hiện tại vợ chồng đã sống ly thân nhau từ tháng 8/2019 đến nay, không ai quan tâm tới ai, mạnh ai người đó sống. Việc này đã được mẹ đẻ anh H là bà Trương Thị Hằng xác nhận, phù hợp với nội dung xác minh tình trạng hôn nhân của Tòa án. Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho Hà Thị Ph được ly hôn anh Lê Văn H để giải phóng cho người phụ nữ là cần thiết và phù hợp pháp luật.

[2] Về con cái: Chị Ph và anh H có 01 con chung tên là Lê Gia Hào - sinh ngày 02/9/2016. Từ khi vợ chồng ly thân nhau cháu Lê Gia Hào đang ở với chị Ph. Chị Ph có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con. Về phía anh H không có quan điểm nguyện vọng gì. Xét hoàn cảnh thực tế, cháu Lê Gia Hào mới được hơn 4 tuổi, đang ở với chị Ph. Cháu Hào còn nhỏ, rất cần bàn tay chăm sóc của người mẹ, bên cạnh mẹ. Về phía anh H thường xuyên đi làm xa nhà, nơi ở không ổn định, nên thời gian gần gũi chăm sóc con có phần hạn chế. Để đảm bảo điều kiện phát triển ổn định bình thường cho con trẻ, tránh sự sáo trộn trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của chị Ph, giao cháu Lê Gia Hào cho chị Ph được trực tiếp nuôi dưỡng nhằm ưu tiên và đảm bảo quyền lợi cho người phụ nữ là cần thiết và để anh H được quyền đi lại thăm nom chăm sóc giáo dục con chung là phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế và các quy định của pháp luật. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung, chị Phượng không yêu cầu nên miễn xét.

[3] Về tài sản: Chị Ph không yêu cầu giải quyết nên miễn xét.

[4] Về án phí: Chị Ph phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Khon 1 điều 28, khoản 4 điều 207, điểm a, b khoản 2 điều 227, điều 228, điều 238, khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 1 điều 24, điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án và lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Xử cho chị Hà Thị Ph được ly hôn anh Lê Văn H.

Về con cái: Giao cháu Lê Gia Hào - sinh ngày 02/9/2016 cho chị Ph trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến tuổi thành niên. Anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh H có quyền đi lại trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Hà Thị Ph phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ly hôn sơ thẩm chị Ph đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bá Thước, theo biên lai số AA/2019/0007407 ngày 28/07/2020. Chị Ph đã nộp đủ tiền án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, vắng mặt chị Hà Thị Ph và anh Lê Văn H. Chị Ph và anh H có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 162/2020/HNGĐ-ST ngày 15/10/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:162/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bá Thước - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về