TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 162/2018/DS-ST NGÀY 22/06/2018 VỀ TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN TUYÊN BỐ VĂN BẢN KÊ KHAI DI SẢN THỪA KẾ VÔ HIỆU
Trong ngày 22 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 193/2017/TLST-DS ngày 11 tháng 10 năm 2017 về “Tranh chấp liên quan đến tuyên bố văn bản kê khai di sản thừa kế vô hiệu theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2018/QĐXXST-DS ngày 10 tháng 5 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 26/2018/QĐST-DS ngày 31 tháng 5 năm 2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị G, sinh năm: 1954; địa chỉ: đường BBD, Phường XIV, Quận VIII, Thành phố Hồ Chí Minh;
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Bà Võ Thị Lài – Luật sư Văn phòng luật sư Minh Lý – Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Bị đơn: Ông Huỳnh Thanh P, sinh năm: 1961; địa chỉ: đường XD, Phường VIII, Quận XI, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Bùi Thành Luật – Luật sư Văn phòng luật sư Bùi Thành Luật thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Văn phòng công chứng BT, trụ sở đường XVNT, Phường XXI, quận BT, Thành phố H. Người đại diện hợp pháp:
Bà Trương Lý T, sinh năm: 1994 là người đại diện theo ủy quyền; (Có đơn xin vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện ngày 28/8/2017, các bản tự khai và biên bản hòa giải, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn – bà Nguyễn Thị G trình bày:
Nguyên căn nhà số 124/13 đường Xóm Đất, Phường 8, Quận 11 là của bà Huỳnh Thị Ở và ông Lê Văn Ngọc (cha dượng bà G) tạo lập được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 70121142343, hồ sơ gốc số 550/2001 ngày 10/01/2001.
Đến năm 2005, bà Ở lập di chúc để lại phần sở hữu và phần thừa kế của ông Lê Văn Ngọc chết để lại cho bà thừa hưởng trong căn nhà trên cho 02 người con là bà Nguyễn Thị G và ông Huỳnh Thanh P thể hiện tại di chúc số 03 quyền số 01TP/CC-SCT/DCTC do chính Ủy ban nhân dân Phường 8, Quận 11 chứng thực ngày 01/12/2005.
Ngày 09/6/2017, bà Huỳnh Thị Ở qua đời thì đến ngày 23/8/2017, bàị G phát hiện ông Huỳnh Thanh P đã có hành vi khai nhận di sản thừa kế gian dối bỏ sót người thừa kế là bà.
Do đó, bà Nguyễn Thị G yêu cầu Tòa án tuyên bố hủy bỏ Văn bản khai nhận di sản thừa kế số 17667 quyển số 08 TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng công chứng Bình Thạnh chứng nhận ngày 22/8/2017.
* Bị đơn ông Huỳnh Thanh P trình bày:
Ông là con duy nhất của ông Lê Văn Ngọc (sinh năm 1914, chết năm 1974) và bà Huỳnh Thị Ở (sinh năm 1924, chết năm 2017).
Trong quá trình chung sống, ông Ngọc và bà Ở có tạo lập được khối tài sản chung là căn nhà số 124/13 đường Xóm Đất, Phường 8, Quận 11 và được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 70121142343, hồ sơ gốc số 550/2001 ngày 10/01/2001.
Do căn nhà này của ông Ngọc, bà Ở tạo lập, ông P là người thừa kế duy nhất của ông Ngọc và bà Ở nên ông không đồng ý hủy Văn bản khai nhận di sản thừa kế số 17667 quyển số 08 TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng công chứng Bình Thạnh chứng nhận ngày 22/8/2017.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do bà Trương Lý T trình bày:
Trong quá trình nhận hồ sơ khai nhận di sản thừa kế của bà Nguyễn Thị Ở, Văn phòng Công chứng BT đã kiểm tra, xem xét hồ sơ và tiến hành đúng các trình tự, thủ tục của pháp luật quy định.
Văn phòng Công chứng BT xin đồng ý với những giải quyết của Tòa án. Tại phiên tòa hôm nay:
Nguyên đơn bà Nguyễn Thị G vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Bị đơn ông Huỳnh Thanh P: Không có ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bàị G: Căn nhà số 124/13 đường Xóm Đất, Phường 8, Quận 11 là của bà Huỳnh Thị Ở và ông Lê Văn Ngọc tạo lập được theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 70121142343, hồ sơ gốc số 550/2001 ngày 10/01/2001. Bàị G là con của bà Huỳnh Thị Ở theo Giấy Phòng lục – sự tòa ngày 12/4/1968, di chúc ngày 01/12/2005 của bà Huỳnh Thị Ở cũng xác định bàị G là con ruột của bà Ở và bà Ở muốn chia một phần di sản của mình cho bàị G. Do đó việc ông Huỳnh Thanh P đi kê khai nhận di sản thừa kế với tư cách là người thừa kế duy nhất của ông Ngọc, bà Ở là không đúng. Bà Nguyễn Thị G yêu cầu hủy Văn bản khai nhận di sản thừa kế số 17667 quyển số 08 TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng công chứng Bình Thạnh chứng nhận ngày 22/8/2017 do thiếu người thừa kế là có cơ sở nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông P: Việc ông P tiến hành khai nhận di sản thừa kế căn nhà 124/13 đường Xóm Đất, Phường 8, Quận 11 là do nhận thức hạn chế về pháp luật. Ông P nghĩ mình là con duy nhất của ông Ngọc, bà Ở nên đi khai nhận di sản thừa kế. Nay bàị G yêu cầu Văn bản khai nhận di sản thừa kế số 17667 quyển số 08 TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng công chứng Bình Thạnh chứng nhận ngày 22/8/2017 do thiếu người thừa kế, ông P không có ý kiến gì.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa có ý kiến như sau:
- Về Thủ tục tố tụng: Kiến nghị Thẩm phán giải quyết vụ án cần khắc phục vi phạm thời hạn chảu bị xét xử và vi phạm thời hạn ban hành Quyết định phân công thẩm phán xem xét đơn khởi kiện. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã tiến hành trình tự tố tụng đúng quy định của pháp luật.
- Về Nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Bà Nguyễn Thị G khởi kiện “Tranh chấp liên quan đến tuyên bố văn bản kê khai di sản thừa kế vô hiệu” với ông Huỳnh Thanh P. Bị đơn có địa chỉ tại Quận 11 nên Tòa án nhân dân Quận 11 thụ lý và giải quyết là đúng theo quy định tại Khoản 11 Điều 26, Điểm a Khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Bà Trương Lý T có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 227, Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Xét về hình thức của hợp đồng:
Xét thấy ngày 22/8/2017, ông Huỳnh Thanh P tiến hành thủ tục kê khai di sản thừa kế của bà Huỳnh Thị Ở là quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tọa lạc tại địa chỉ 124/13 đường Xóm Đất, Phường 8, Quận 11. Văn bản này đã được Công chứng viên Nguyễn Quốc Thịnh ký, chứng thực do đó phù hợp với quy định tại Điều 58 Luật Công chứng năm 2014.
[3] Xét về thủ tục công chứng văn bản:
Khi làm thủ tục Công chứng, ông Huỳnh Thanh P đã nộp một bộ hồ sơ gồm bản sao giấy tờ tùy thân, bản sao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phiếu yêu cầu công chứng ghi rõ nội dung cần công chứng, chứng thực. Như vậy Văn phòng công chứng Bình Thạnh đã làm đúng theo qui định tại khoản 1 Điều 35, Điều 36, Điều 37 Luật Công chứng năm 2014.
[4] Xét về nội dung của văn bản công chứng:
Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 70121142343, hồ sơ gốc số 550/2001 được Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 10/01/2001 chứng thực chủ sở hữu căn nhà số 124/13 đường Xóm Đất, Phường 8, Quận 11 là ông Lê Văn Ngọc và bà Huỳnh Thị Ở. Ông Lê Văn Ngọc chết năm 1994 (Trích lục bộ khai tử ngày 23/12/1974), bà Huỳnh Thị Ở chết ngày 08/6/2017 (Giấy khai tử số 203/TLKT-BS ngày 09/6/2017). Ngày 22/8/2017, ông Huỳnh Thanh P tiến hành thủ tục khai nhận di sản thừa kế. Trong văn bản kê khai nhận di sản thừa ngày 22/8/2017, tại tiểu mục 4, mục A phần II, ông Huỳnh Thanh P khai “bà Huỳnh Thị Ở có 01 người con có tên sau: Huỳnh Thanh P, sinh năm: 1961” nên ông là người khai nhận di sản thừa kế hợp pháp của bà Huỳnh Thị Ở. Tuy nhiên các tài liệu, chứng cứ như: Bản trích lục bộ khai sinh ký hiệu số 22 năm 1954 xác định bà Nguyễn Thị G là con của ông Nguyễn Văn Bảy và bà Huỳnh Thị Ở; Tờ tường trình của bà Huỳnh Thị Ở ngày 13/9/2000 có xác nhận của Ủy ban nhân dân Phường 8, Quận 11, bà Ở cũng khẳng định bà Nguyễn Thị G là con riêng của bà Ở; Các biên bản hòa giải lập tại Tòa án ngày 04/01/2018 và 10/4/2018, ông Huỳnh Thanh P đều khẳng định bà Nguyễn Thị G là con riêng của bà Huỳnh Thị Ở; Tờ di chúc lập ngày 01/12/2005 có xác nhận của Ủy ban nhân dân Phường 8, Quận 11 về việc bà Huỳnh Thị Ở để lại khối tài sản là căn nhà số 124/13 đường Xóm Đất, Phường 8, Quận 11 cho bà Nguyễn Thị G và ông Huỳnh Thanh P. Do đó có cơ sở xác định bà Nguyễn Thị G là một trong những người đồng thừa kế của bà Huỳnh Thị Ở.
Việc ông Huỳnh Thanh P tiến hành thủ tục khai nhận di sản thừa kế theo Điều 58 Luật Công chứng là không đúng với quy định của pháp luật, do đó Hội đồng xét xử căn cứ Điều 58 Luật Công chứng; Điều 123, khoản 3 Điều 124, khoản 1 Điều 132 và điểm a Khoản 1 Điều 651 của Bộ luật Dân sự chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị G hủy văn bản kê khai di sản thừa kế số 17667 quyển số 08 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 22/8/2017 của Văn phòng Công chứng BT, Thành phố Hồ Chí Minh.
[5] Về án phí:
Do yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận toàn bộ, nên theo quy định tại Khoản 2 Điều 26 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án nguyên đơn không phải chịu án phí, bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Khoản 11 Điều 26, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Khoản 1, Khoản 2 Điều 227, Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào Điều 58 Luật Công chứng;
Căn cứ vào Điều 123, khoản 3 Điều 124, khoản 1 Điều 132 và điểm a Khoản 1 Điều 651 của Bộ luật Dân sự;
Căn cứ vào Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị G.
Tuyên bố hủy Văn bản khai nhận di sản thừa kế số 17667 quyển số 08 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 22/8/2017 của Văn phòng Công chứng BT, Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Về án phí:
2.1 Ông Huỳnh Thanh P phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng.
2.2 Hoàn trả lại cho bà Nguyễn Thị G số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AG/20141/0004397 ngày 18/9/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cư ng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án 162/2018/DS-ST ngày 22/06/2018 về tranh chấp liên quan đến tuyên bố văn bản kê khai di sản thừa kế vô hiệu
Số hiệu: | 162/2018/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 22/06/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về