TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 16/2021/HS-ST NGÀY 19/03/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 19 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 03/2021/TLST-HS ngày 21 tháng 01 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2021/QĐXXST-HS, ngày 09 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn T1, sinh năm 1995; Nơi cư trú: Thôn NL, xã T, huyện K, tỉnh Thái Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn Đình C (đã chết) và bà Trần Thị H, sinh năm 1969; Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị truy nã, ra đầu thú và bị tạm giữ từ ngày 14/10/2020, đến ngày 23/10/2020 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình.
* Bị hại: Anh Hoàng Văn C - Sinh năm 1972.
Nơi cư trú: Tổ 2, phường T, thị xã N, tỉnh Yên Bái.
* Người làm chứng:
- Anh Lò Văn D - Sinh năm 1980.
Nơi cư trú: Tổ 1, phường T, thị xã N, tỉnh Yên Bái.
- Anh Trịnh Khắc H - Sinh năm 1971.
Nơi cư trú: Thôn N, xã T, huyện K, tỉnh Thái Bình.
- Anh Hoàng Văn T2 - Sinh năm 1968.
Nơi cư trú: Thôn N, xã T, huyện K, tỉnh Thái Bình.
- Anh Đàm Văn T3 - Sinh năm 1968.
Nơi cư trú: Thôn T, xã X, huyện T, tỉnh Thái Bình.
- Anh Hoàng Văn T4 - Sinh năm 1971.
Nơi cư trú: Thôn T, xã TG, huyện K, tỉnh Thái Bình.
- Anh Nguyễn Minh T5 - Sinh năm 1994.
Nơi cư trú: Thôn N, xã T, huyện K, tỉnh Thái Bình.
- Chị Trần Thị Hoàng Y - Sinh năm 1991.
Nơi cư trú: Thôn A, xã T, huyện K, tỉnh Thái Bình.
(có mặt bị cáo, anh C và những người làm chứng vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20h ngày 14/4/2018, Phạm Quang Đ, Phạm Minh T2 đều trú tại thôn N, xã T, huyện K và Phạm Xuân T6, trú tại thôn A, xã T, huyện K cùng 08 người khác là bạn rủ nhau đi hát karaoke tại quán Karaoke ĐH của bà Phạm Thị D ở thôn A, xã T (bà D đi vắng nên giao quán cho con gái là chị Trần Thị Hoàng Y quản lý). Nhóm của Đ (11 người) được sắp xếp hát tại phòng Vip 2 ở tầng 1, lúc đầu có 04 nhân viên nữ tên H1, H2, V, T phục vụ rót bia, bấm chọn bài hát, sau đó H1, H2 được điều sang phục vụ ở phòng khác.
Khoảng 21h cùng ngày, anh Phạm Đức L, trú tại tổ 11, phường T, thành phố T cùng bạn bè là các anh Hoàng Văn C, anh Lò Văn D, anh Trịnh Khắc H, anh Đàm Văn T3, anh Hoàng Văn P và 06 người khác đến quán Điểm Hẹn để hát karaoke (tổng số 12 người). Anh C vào quán gặp chị Y, giới thiệu là người quen của bà D và hỏi phòng hát thì chị Y trả lời còn phòng, nhưng hết nhân viên nữ phục vụ chọn bài. Lúc này ở quán có anh Phạm T, trú tại thôn P, xã L, huyện K (là khách) đang ngồi ở bàn gần quầy lễ Tân. Anh T nói với nhóm của L với nội dung hết phòng và nhân viên thì về, do vậy hai bên xảy ra lời qua tiếng lại. Anh L cầm cốc nước ở bàn, hắt vào mặt anh T. Anh T giải thích anh là khách đến quán rồi đi về. Sau đó, chị Y sắp xếp cho nhóm của anh L hát tại phòng Víp 3 ở tầng 2. Y bảo nhân viên nữ tên H2 đang phục vụ tại phòng Víp 2 và H1 sang phục vụ ở phòng Víp 3.
Do thấy 02 nhân viên phục vụ ra ngoài lâu, nên T2 đi ra quầy lễ tân hỏi chị Y lý do thì được chị Y cho biết đã điều 02 nhân viên nữ sang phòng Víp 3 theo yêu cầu của khách. T2 và T6 muốn biết những người hát trong phòng Víp 3 là ai, ở đâu nên T6 cầm chai bia và cốc vào phòng Víp 3 lấy cớ mời bia để xem mặt những người này, còn T2 đứng ngoài. T6 vào phòng Víp 3 nhưng thấy không quen biết ai và không có ai uống bia với T6 nên đi ra, sau đó T2 và T6 đi xuống tầng 1 ngồi ở ghế đá ngoài sân. Anh Lò Văn D từ phòng Víp 3 đi ra ngoài hành lang tầng 2 nói chuyện điện thoại, T2 nhìn thấy và cho rằng anh D gọi người đến quán để gây sự đánh nhau với mình. Lúc này nhóm của Đ cùng mọi người trong phòng Víp 2 không hát nữa ra về, chỉ có Đ, T2 và T6 ở lại quán. T2 nói với Đ về việc có xích mích với nhóm người hát ở tầng 2 và gọi điện cho Vũ Văn T7, trú tại thôn N, xã T nói về việc có nhóm thanh niên lạ đến quán Điểm Hẹn gây sự đánh nhau, bảo T7 cầm đồ (dao) đến để giải quyết. Đ gọi điện cho Vũ Đình Q, trú tại thôn N, xã T nói về việc có nhóm thanh niên lạ gây sự đánh nhau với T2 và bảo Q mang “đồ” đến. T7 và Nguyễn Công H, trú tại thôn N, xã T đang ở nhà Q nên Q nói lại cho H biết về nội dung Đ gọi điện. T7 gọi điện cho Nguyễn Trọng V, trú tại thôn N, xã T và Phạm Quang T7, trú tại thôn A, xã T nói về việc có nhóm người ở xã V đến quậy và rủ T7 ra xem. Sau đó T7 đi xe máy về nhà, mặc áo mưa, lấy một đoạn gậy gỗ (cơ bi-a) mang theo. Q tiếp tục gọi điện cho Nguyễn Văn T (là em trai V) cũng nói về việc có nhóm người lạ đang gây sự với T2 và hẹn gặp nhau ở cổng nhà văn hóa thôn N. Tiếp theo, Q gọi điện cho Nguyễn Minh T5 ở cùng thôn Nam Lâu, xã Thanh T2, bảo T5 đưa trả 03 con dao bầu, mỗi dao đều được hàn gắn với 01 thanh tuýp bằng sắt dài khoảng 1,3m.
Sau đó, Q, H, T7, V, T tập trung ở cổng nhà văn hóa thôn, gần nhà Q. Khi T7 đi xe máy đến, Q bảo T7 chở Q đi đến nhà T5, T5 mang ra cổng đưa cho Q 03 con dao rồi quay vào nhà. T7 lái xe chở Q quay về khu vực nhà văn hóa, Q đưa cho H, T mỗi người một con dao. Khi T7 đi xe máy đến, cả nhóm 06 người đi trên 03 chiếc xe mô tô, T7 chở Q, V chở H, T7 chở T. Q, H, T ngồi sau, mỗi người cầm 01 con dao. Khi đến cầu thôn A, T7 gọi điện cho T2, T2 bảo đang ở quán ĐH nên cả nhóm đi đến khu vực trước cổng quán. Q, H, T để 03 con dao ở vệ cỏ ven đường, gần đối diện cổng quán. Sau đó, cả nhóm đi xe máy đến cầu gần quán bia nhà anh Lê Văn D ở thôn A, xã T (cách quán ĐH khoảng 100m) để xe ở ven đường. T7, Q, H, V, T đi bộ lại phía cổng quán ĐH.
Khi gặp nhau, T2 hỏi T7 “Đồ đâu”, T7 quay sang hỏi Q thì Q chỉ chỗ để dao cho T2, T2 bảo mọi người cứ chờ bên ngoài để T2 vào trước. T2 cầm 01 dao trong số dao mà nhóm Q mang đến đi sang quán Điểm Hẹn và để dao ở góc tường giáp vỉa hè phía bên ngoài quán rồi đi bộ vào trong quán. Khoảng 22 giờ thì mọi người trong phòng Víp 3 nghỉ, không hát nữa đi xuống tầng một để thanh toán tiền ra về. T2 đi lại khoác vai bảo anh D ra cổng nói chuyện. T6 ngồi ở gốc cây trước cổng quán, còn Đ, H, V, T, T7, Q đứng ở phía bên kia đường, gần đối diện cổng quán. Khi ra đến cổng, T2 bảo anh D “Ý ông làm sao, ông thích gọi ai” đồng thời T2 dùng tay đấm vào ngực anh D. Anh D đẩy T2 ra và chạy vào trong quán nói “Chú C ơi, nó đánh cháu” và cầm 01 chiếc ghế (loại ghế khung bằng sắt, đan sợi nhựa giả sợi mây) quay ra cổng. Thấy anh D nói bị đánh, anh C, anh L, anh T3, anh P, anh H cầm bàn, ghế và chai bia có sẵn ở sân quán xông ra ngoài và ném những vật dụng trên về phía cổng.
Sau khi đấm anh D, T2 chạy ra ngoài cổng quán lấy dao lúc trước dựng ở góc tường giáp vỉa hè. Đ và H mỗi người cầm 01 con dao và một người giật giao từ tay T đang cầm chạy sang cổng quán, Đ chạy trước, H chạy sau, T7 cầm gậy gỗ (cơ bi-a) cũng chạy sang cổng quán. Q, V, T nhặt viên gạch có kích thước 1/3 viên gạch bình thường chạy sang ném về phía cổng quán vào nhóm người đang chạy từ trong quán ra. Khi nhóm của anh D, anh L, anh C, anh T3, anh P, anh H chạy ra ngoài cổng thì T2 cầm dao vung lên chém 3 đến 4 nhát vào anh C, anh C đang cầm ghế giơ lên đỡ nên có nhát trúng vào ghế, có nhát trúng vào đầu, cổ và vai. H cầm dao nhưng quay ngược phần cán dao ra ngoài (mũi dao quay vào trong) vụt phần tuýp sắt về phía trước; T7 cầm gậy gỗ vụt làm gậy gẫy làm đôi, không xác định được vụt trúng vào ai. Anh D cầm ghế chạy đến cổng thì bị vụt trúng lưng, bị ném trúng ngực; anh P bị ném nên cầm ghế đỡ thì bị vụt trúng vào lưng; anh T3 cầm bàn uống nước có mặt kính ném ra thì bị vụt trúng vào vùng cổ (không xác định được ai gây thương tích cho anh D, anh P và anh T3).
Trong lúc hai bên đang đánh nhau, anh L cầm chai bia chạy ra đến cổng thì bị Đ cầm dao đâm 01 nhát trúng vào vùng ngực bên trái. Anh L dùng 02 tay bắt dao và giằng co với Đ nên Đ buông dao ra, dao vẫn cắm vào ngực anh L. Lúc này, H nhìn thấy vậy liền hô “Chạy” nên cả nhóm T2, Đ, T7, Q, V, T, mặc dù không biết việc Đ đâm anh L, nhưng nghe T3g hô cũng bỏ chạy theo H. V chở H và T về cửa hội trường thôn N, xã T (H cầm 01 dao về). Lúc này T7 đang ngồi quán bia nhà anh D, thấy xô xát bên quán Café Karaoke ĐH, T7 đi sang thì gặp Q chạy ở ngoài đường, T7 quay lại lấy xe máy chở Q về hội trường thôn Nam Lâu, còn T7 đi về nhà. T7 chở Đ, T2 (T2 cầm 01 dao) thì T6 nhìn thấy và lên xe ngồi sau. Trên đường về thì T6 xuống xe đi bộ về nhà, còn T7, Đ và T2 đến hội trường thôn N gặp H, V và T. Tại đây, Đ có nói cho T2, T7, Q, H, V, T biết về việc vừa đâm trúng một người trong nhóm đối phương, dao còn dắt trên ngực người đó, H và T2 đưa 02 dao cho Q giấu ở chân cột điện sau hội trường thôn rồi tất cả đi về nhà.
Sau khi bị đâm vào ngực, anh L chạy vào trong quán, ngã ở thềm cửa, cạnh quầy lễ T2, dao rơi ra ở sân. Anh C bị thương vùng đầu, cổ, vai và tay. Mọi người đưa anh L, anh C đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình nhưng anh L đã chết trước khi đến Bệnh viện. Anh C điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái Bình từ ngày 14/4/2018 đến ngày 16/4/2018 xin chuyển đến điều trị tiếp tại Bệnh viện Đa khoa khu vực N, tỉnh Yên Bái từ ngày 17/4/2018 đến ngày 26/4/2018. Trong quá trình xô xát, đánh nhau giữa hai bên, Phạm Quang Đ bị ném trúng mu bàn chân phải gây xây xước da kích thước 01 x 0,2cm, Phạm Minh T2 bị 01 vết xước da có kích thước 01 x 0,1cm ở đầu gối bên trái, anh D, anh P và anh T3 bị thương tích nhẹ, không ai đề nghị giải quyết và yêu cầu bồi thường.
Sau khi sự việc xảy ra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình đã khởi tố đối với Phạm Quang Đ về tội giết người, khởi tố Phạm Minh T2, Vũ Đình Q, Vũ Văn T7, Nguyễn Công H, Nguyễn T V và Nguyễn Văn T về tội cố ý gây thương tích. Hành vi giết người của bị cáo Đ và hành vi cố ý gây thương tích của các bị cáo T2, Q, T7, H, V đã được xét xử tại Bản án số 12/2019/HSST ngày 05/3/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình. Bị cáo Nguyễn Văn T bỏ trốn khỏi địa phương và bị truy nã, đến ngày 14/10/2020 ra đầu thú.
- Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 48/18/TgT ngày 14/5/2018 của Trung tâm pháp y Sở y tế Thái Bình kết luận về thương tích của anh Hoàng Văn C: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 36% .
Bản cáo trạng số 08/CT-VKSTB ngày 21 tháng 01 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 (thuộc các trường hợp quy định tại điểm a, i khoản 1) Điều 134 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo T5 khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã xác định.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
2. Về hình phạt:
- Áp dụng điểm c khoản 3 (thuộc trường hợp quy định tại điểm a, i khoản 1) Điều 134 Bộ luật Hình sự, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 50, Điều 54, Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 02 năm - 02 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/10/2020.
3. Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết. Ngoài ra còn đề nghị quyết định án phí đối với bị cáo.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội đã gây ra, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất để bị cáo yên tâm cải tạo, sớm được trở về hòa nhập cuộc sống.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Trong quá trình tiến hành tố tụng, các cơ quan, người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Việc ban hành các quyết định tố tụng đúng quy định của pháp luật. Bị cáo, bị hại không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo T5 khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã xác định. Khoảng 21 giờ ngày 14/4/2018 sau khi được Vũ Đình Q gọi điện thoại thông báo có nhóm người lạ đang đánh T2 tại quán Karaoke Điểm Hẹn của chị Phạm Thị Dịu ở thôn An Thọ, xã Thanh T2, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, bị cáo và anh trai Nguyễn T V chở nhau ra hội trường thôn gặp mọi người rồi cùng các bị cáo khác mang theo dao đến quán Điểm Hẹn để đánh nhau với nhóm của anh Phạm Đức L và anh Hoàng Văn C. Quá trình xô xát Phạm Quang Đ đã đâm anh Phạm Đức L tử vong. Phạm Minh T2, Nguyễn Công H dùng dao, Vũ Văn T7 dùng gậy gỗ đánh nhau với nhóm anh Lò Văn D, anh Hoàng Văn C còn Vũ Đình Q, Nguyễn T V và Nguyễn Văn T hỗ trợ dùng gạch ném về phía bị hại. Hậu quả anh Hoàng Văn C bị đa chấn thương, với tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 36%.
[3] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo khác đã bị xét xử tại bản án số 12/2019/HS-ST ngày 05/3/2019, phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của bị hại, người có Q lợi nghĩa vụ liên quan và người làm chứng. Ngoài ra còn được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa như: Biên bản về việc tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình lập ngày 14/10/2020; Biên bản khám hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình lập hồi 02 giờ ngày 15/4/2018; Biên bản xác định vị trí vật chứng và biên bản quản lý vật chứng; Bản kết luận giám định số 2157/C54 (TT3) ngày 11/6/2018 của Viện Khoa học Hình sự Bộ Công an; Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 48/18/TgT ngày 14/5/2018 của Trung tâm pháp y Sở y tế Thái Bình kết luận về thương tích của anh Hoàng Văn C cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.
[4] Trong quá trình xô xát tại quán Karaoke ĐH ở thôn A, xã T, huyện K, bị cáo Nguyễn Văn T cùng Vũ Đình Q, Nguyễn T V dùng gạch trực tiếp ném về phía bị hại đồng thời giúp sức cho Phạm Minh T2, Nguyễn Công H về công cụ để đánh gây thương tích cho anh Hoàng Đức C khi không có mẫu thuẫn với anh C, do đó hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 (thuộc các trường hợp quy định tại điểm a, i khoản 1) Điều 134 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là đúng pháp luật.
Tội phạm và hình phạt được quy định như sau:
Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;
… i) Có tính chất côn đồ;
… 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 Điều này;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương của cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;
… [5] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, gây dư luận bất bình trong quần chúng nhân dân. Do đó, cần xử phạt cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định để bị cáo có cơ hội sửa chữa sai phạm, trở T5 công dân có ích cho xã hội.
[8] Về T6 tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu T6 tiết tăng nặng nào.
[8.1] Về T6 tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã T5 khẩn khai báo, ăn năn hối cải và ra đầu thú, khi chưa bị bắt giữ bị cáo tác động gia đình nộp tiền bồi thường cho anh C phần của bị cáo và anh trai Nguyễn T V vì vậy bị cáo được hưởng T6 tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[8.2] Xét thấy, bị cáo tham gia với vai trò thấp hơn các bị cáo khác trong vụ án do đó áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo dưới khung hình phạt giúp bị cáo yên tâm cải tạo, sớm trở lại hòa nhập cuộc sống cộng đồng.
[9] Về trách nhiệm dân sự: Bản án số 12/2019/HSST ngày 05/3/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình đã quyết định: Buộc các bị cáo Phạm Minh T2, Vũ Đình Q, Vũ Văn T7, Nguyễn Công H, Nguyễn T V phải liên đới bồi thường cho anh Hoàng Văn C các khoản chi phí cứu chữa vết thương, thu nhập bị mất, công người chăm sóc và tiền tổn thất về tinh thần là 111.442.000 đồng. Các bị cáo đã bồi thường xong cho anh Hoàng Văn C.
Quá trình phục hồi điều tra anh Hoàng Văn C không có ý kiến trình bày về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo Nguyễn Văn T. Phạm Minh T2, Vũ Đình Q, Vũ Văn T7, Nguyễn Công H, Nguyễn T V không yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn T phải hoàn trả lại số tiền đã bồi thường cho anh C. Vì vậy về trách nhiệm dân sự không đặt ra giải quyết.
[10] Về vật chứng: Đã được xử lý trong Bản án số 12/2019/HSST ngày 05/3/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình.
[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 50, Điều 54, Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14 tháng 10 năm 2020.
3. Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết.
4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Q kháng cáo: Bị cáo có Q kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có Q kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án 16/2021/HS-ST ngày 19/03/2021 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 16/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về