TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ
BẢN ÁN 16/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 29 tháng 9 năm 2020 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 121/2020/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2020/QĐXXST – HNGĐ ngày 08 tháng 9 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số: 13/2020/QĐST – HNGĐ ngày 17 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Kim D, sinh năm 1987; nơi ĐKHKTT: Đội 1, thôn Kim Đ, xã Cam A (nay là Thanh A) , huyện C, tỉnh Quảng Trị;
Nơi thường trú: Số 24 Huỳnh Văn N, ấp An C, xã B, huyện T, tỉnh Đồng Nai, có đơn xin xét xử vắng mặt.
2. Bị đơn: Anh Lê Quang P, sinh năm 1986; địa chỉ: Số 12 đường H, Khu phố M, Phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Đơn khởi kiện đề ngày 03/6/2020, trong phiên hòa giải, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Trần Thị Kim D trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Kim D và anh Lê Quang P đăng ký kết hôn ngày 06/5/2011 tại UBND Phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị. Sau ngày cưới, anh chị về chung sống với nhà chồng tại khu phố M, Phường N, thành phố Đ. Quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Anh P rượu chè, cờ bạc, đánh đập chị D, nên từ năm 2013 chị D đã bỏ đi vào các tỉnh phía Nam làm ăn sinh sống cho đến nay. Anh chị đã không chung sống với nhau 7 năm, tình cảm vợ chồng không còn. Do đó, chị Trần Thị Kim D yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Lê Quang P.
Về con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Lê Quang H, sinh ngày 05/3/2012. Chị Dcó nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con và không yêu cầu anh Pcấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Chị D không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Lê Quang P đã được cấp, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng không có văn bản trình bày ý kiến gửi đến Tòa án để tham gia các phiên họp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải tại Tòa án và đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà phát biểu quan điểm: Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà thụ lý vụ án theo đơn khởi kiện của chị Trần Thị Kim D là đúng thẩm quyền. Quá trình thụ lý và giải quyết vụ án, Thẩm phán, Thư ký đã thực hiện đảm bảo về trình tự thủ tục tố tụng theo quy định; tại phiên Tòa Hội đồng xét xử, Thư ký thực hiện đúng trình tự; những người tham gia tố tụng chấp hành đúng các quy định của pháp luật.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 56; Điều 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử cho chị Trần Thị Kim D được ly hôn anh Lê Quang P. Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao Lê Quang H, sinh ngày 05/3/2012 cho chị Trần Thị Kim D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị D không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét. Tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Xác định quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Chị Trần Thị Kim D yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn anh Lê Quang P là quan hệ tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Lê Quang P đang trú tại Khu phố M, Phường N, thành phố Đ nên theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.
Về sự vắng mặt của các đương sự: Chị D có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định tại Khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt nguyên đơn. Anh Lê Quang P, đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng lần thứ hai , nhưng anh P vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt bị đơn.
[2] Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử thấy:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Kim D và anh Lê Quang P đăng kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân Phường N, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 64 ngày 06/5/2011. Đây là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống anh chị đã phát sinh nhiều mâu thuẫn dẫn đến mỗi người phải sống mỗi nơi. Từ năm 2013 đến nay, Chị D đã rời khỏi nhà chồng đi vào làm ăn sinh sống ở các tỉnh phía Nam. Anh chị không còn quan tâm hay biết lẫn nhau Chị D hiện sinh sống và làm việc tại huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, Chị D đã nhiều lần nộp đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh P nhưng do điều kiện ở xa đi lại khó khăn nên đã rút đơn. Nay nhận thấy không thể tiếp tục kéo dài cuộc hôn nhân nên Chị D tha thiết có nguyện vọng được ly hôn với anh Lê Quang P.
Tòa án đã tiến hành xác minh tại địa phương và gia đình của anh P, được biết: Chị Trần Thị Kim D và anh Lê Quang P sau khi đăng kết hôn về sinh sống tại khu phố M, Phường N, thành phố Đ một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Từ năm 2013 Chị D đưa cháu Lê Quang H đi khỏi nhà chồng, từ đó đến nay không trở về. Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị Trần Thị Kim D và anh Lê Quang P mâu thuẫn đã trầm trọng, không thể khắc phục được, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, nguyện vọng xin ly hôn của Chị D là có căn cứ, cần chấp nhận cho Chị D được ly hôn anh Lê Quang P.
- Về con chung: Chị D và anh P có 01 con chung Lê Quang H, sinh ngày 05/3/2012 . Chị Trần Thị Kim D có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu H, không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con. Anh P không có ý kiến về việc giải quyết nuôi con sau khi ly hôn. Xét thấy, cháu H đã sống cùng với mẹ suốt từ khi sinh ra cho đến nay, cháu hiện đang sinh sống và học tập tại Biên Hòa, Đồng Nai cùng với chị Trần Thị Kim D. Bản thân cháu có nguyện vọng sau khi anh P Chị D ly hôn được tiếp tục được ở với mẹ, nên cần giao cháu H cho Chị D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng để tránh làm ảnh hưởng tâm lý, thay đổi môi trường sống của cháu. Anh P không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.
Về án phí: Chị Trần Thị Kim D phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 56; 81; 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết 326/2016 /UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử:
- Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Trần Thị Kim D được ly hôn anh Lê Quang P.
- Về con chung: Giao cháu Lê Quang H, sinh ngày 05/3/2012 cho chị Trần Thị Kim D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Lê Quang P không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.
- Về án phí: Chị Trần Thị Kim D phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số AA/2018/0000570 ngày 04/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà. Chị D đã nộp đủ tiền án phí.
- Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được giao hoặc niêm yết./.
Bản án 16/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 16/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về