Bản án 16/2019/HS-ST ngày 17/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 16/2019/HS-ST NGÀY 17/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 17 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện B,Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:192/TLST-HS ngày 04 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:190/2018/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo:

Đỗ Hoàng Nhật N (Ty), sinh năm: 1988 tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: 4/6B ấp M, xã X, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đỗ N L và bà Hoàng Thị Thu T;

Tiền án: Ngày 30/5/2017 bị Tòa án nhân dân huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;Tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 03/02/2016 bị Ủy ban nhân dân xã X, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định quản lý cai nghiện ma túy tự nguyện tại gia đình thời hạn 06 tháng. Ngày 21/11/2018 bị Tòa án nhân dân huyện H xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo bị công an huyện H bắt tạm giam từ ngày 10/8/2018 (có mặt)

- Bị hại: Bà Trương Thị N, sinh năm 1967 (vắng mặt)

Thường trú: 35/64 Đường số 8, phường T, quận T, Thành phố Hồ ChíMinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dungvụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 01 giờ ngày 08/6/2018, bị cáo Đỗ Hoàng Nhật N rủ tên R (chưa rõ lai lịch) đi trộm tài sản, R đồng ý, N lấy bộ đoản dùng để bẻ khóa cất vào túi quần, R điều khiển xe gắn máy Yamaha Sirius (không rõ biển số) chở N đến khu vực xã V, huyện B tìm tài sản để trộm cắp, khi đến Ấp 6B, xã V, huyện B thì phát hiện bên trong sân nhà có dựng 01 xe mô tô hiệu Honda loại Vison màu trắng, biển số 59D2-487.46 của bà Trương Thị N, cổng rào đang khóa. R đứng ngoài cảnh giới, N sử dụng đoản bẻ khóa cổng vào trong kiểm tra thấy xe không khóa cổ, N dùng đoản bẻ khóa để khởi động xe nhưng cây đoản gảy làm kẹt một đầu bên trong ổ khóa nên không mở được, N dẫn xe ra ngoài cổng. N ngồi lên chiếc xe biển số 59D2-487.46 để R chạy xe Sirius dùng chân đẩy đi. Lúc khoảng 02 giờ 30 phút, cả hai đẩy đến khu vực Ấp 7, xã XT, huyện H thì bị Công an xã XT tuần tra phát hiện bắt giữ giao Công an huyện B điều tra, xử lý theo thẩm quyền.

Tại biên bản kết luận định giá số 2362/HĐĐG-TTHS-TCKH ngày 30/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Xe gắn máy hiệu Honda Vision, biển kiểm soát59D2-487.46, số máy TF66E0358950, số khung RLH5F5816GY367932 có giá35.625.000 (Ba mươi lăm triệu sáu trăm hai mươi lăm nghìn) đồng.

Tại Cáo trạng số 185/CTr-VKS ngày 03 tháng 12 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Đỗ Hoàng Nhật N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

1. Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng.

2. Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B trình bày lời luận tội, giữ quan điểm truy tố như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo với mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù và tổng hợp hình phạt 02 (hai) năm tù tại bản án hình sự sơ thẩm số 169/2018/HS-ST ngày 21/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện H; về xử lý vật chứng: trả lại điện thoại cho bị cáo, vật chứng còn lại thì tịch thu tiêu hủy.

3. Bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều phù hợp quy định của pháp luật.

 [2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra của bị cáo, người bị hại và những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Vào ngày08/06/2018, N cùng đối tượng tên R (chưa rõ lai lịch) lợi dụng sự sơ hở của bàN để xe mô tô hiệu Honda loại Vison màu trắng, biển số 59D2-487.46 (trị giá 35.625.000 đồng) trong sân nhà, không người trông coi nên bị cáo cùng R lén lút chiếm đoạt chiếc xe trên. Với hành vi đó bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

 [3] Hành vi của bị cáo đã xâm phạm tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương, làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của người dân. Bị cáo là người có đủ năng lực nhận thức, phạm tội với lỗi cố ý, mặt khác bị cáo có nhân thân xấu. Do đó, cần có mức án nghiêm nhằm giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

Ngoài ra bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án nên lần phạm tội này bị cáo đã tái phạm. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

 [4] Sau khi thực hiện hành vi phạm tội lần này, bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản ở huyện H và đã bị Tòa án nhân dân huyện H xử phạt 02 năm tù. Bản án này đã có hiệu lực pháp luật nên căn cứ Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015 để tổng hợp hình phạt đối với bị cáo là phù hợp.

 [5] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản đã được thu hồi trả lại cho người bị hại. Từ đó, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà đáng lẽ ra bị cáo phải chịu.

 [6] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa hôm nay bà Trương Thị N vắng mặt nhưng trong hồ sơ thể hiện bà N đã nhận lại xe gắn máy và không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không xét.

 [7] Về xử lý vật chứng:

- Xe gắn máy hiệu Honda Vision, biển kiểm soát 59D2-487.46, số máy TF66E0358950, số khung RLH5F5816GY367932, Cơ quan Điều tra đã trả lại cho bị hại nên ghi nhận.

- 01 ổ khóa xe máy Vision bên trong ổ khóa kẹt 01 đầu đoản; 01 ổ khóa kim loại màu vàng hiệu Việt - Tiệp thu giữ của bị hại và bị hại cũng không nhận lại. Xét không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 đoạn kim loại hình lục giác, một đầu dẹp dài 7cm; 01 đoạn kim loại hình lục giác, một đầu dẹp dài 5cm; 01 đoạn kim loại hình trụ dài 5cm; 01 thanh kim loại có tay cầm bằng nhựa (cao su) màu xanh, đen dài 16cm có khắc chữ SRUNV Autotools; 01 thanh kim loại dài 11cm; 01 thanh kim loại dài 10,5cm;

01 thanh kim loại dài 6,5cm; 01 thanh kim loại hình chữ Z dài 3cm; 01 thanh kim loại hình chữ Z dài 4cm; 01 thanh kim loại dài 08cm. Đây là công cụ bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội và không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 điện thoại dị động Sam Sung GT-E1200Y màu đen thu giữ của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo.

 [8] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Hội đồng xét xử buộc bị cáo Đỗ Hoàng Nhật N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 55 và khoản 1 Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

 [1] Tuyên bố bị cáo Đỗ Hoàng Nhật N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

 [2] Xử phạt bị cáo Đỗ Hoàng Nhật N 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 02 (hai) năm tù tại bản án hình sự sơ thẩm số 169/2018/HS- ST ngày 21/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh. Buộc bị cáo phải chấp hành một hình phạt chung là 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/8/2018.

 [3] Tịch thu và tiêu hủy :

- 01 ổ khóa xe máy Vision bên trong ổ khóa kẹt 01 đầu đoản; 01 ổ khóa kim loại màu vàng hiệu Việt - Tiệp.

- 01 đoạn kim loại hình lục giác, một đầu dẹp dài 7cm; 01 đoạn kim loại hình lục giác, một đầu dẹp dài 5cm; 01 đoạn kim loại hình trụ dài 5cm; 01 thanh kim loại có tay cầm bằng nhựa (cao su) màu xanh, đen dài 16cm có khắc chữ SRUNV Autotools; 01 thanh kim loại dài 11cm; 01 thanh kim loại dài 10,5cm;

01 thanh kim loại dài 6,5cm; 01 thanh kim loại hình chữ Z dài 3cm; 01 thanh kim loại hình chữ Z dài 4cm; 01 thanh kim loại dài 08cm.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại dị động Sam Sung GT-E1200Y màu đen.

Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 26/11/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện B.

 [4] Buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

 [5] Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2019/HS-ST ngày 17/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:16/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về