Bản án 16/2019/HS-PT ngày 31/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 16/2019/HS-PT NGÀY 31/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31/01/2019, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 254/2018/TLPT-HS ngày 10/12/2018 đối với bị cáo Nguyễn Đức Nguyễn do có kháng cáo của bị cáo và đối với bản án hình sự sơ thẩm số 157/2017/HSST ngày 31/10/2018 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Giang.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn Đức N, sinh năm 1997; Tên gọi khác: Không; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: thôn Q, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; con ông: Nguyễn Đức G, sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1968; gia đình có 2 chị em, bị cáo là con thứ 2; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự, nhân thân: chưa có. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 04/6/2018, bị tạm giữ, tạm giam từ đó đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 09 giờ 50 phút, ngày 04/6/2018, tại khu vực trước cửa số nhà 79, đường T, phường L, thành phố B; Tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố B, tiến hành kiểm tra bắt quả tang: Nguyễn Đức N, sinh năm 1997, trú tại: thôn Q, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang, có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, vật chứng thu giữ:

- 01 gói nilon mầu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa viền mầu xanh, bên trong đựng chất tinh thể mầu trắng nghi là ma túy "đá", thu tại túi quần bên trái đang mặc của N khi bị bắt quả tang – được niêm phong dán kín vào phong bì thư ký hiệu "01" có lập biên bản niêm phong kèm theo.

- 01 ống hút nhựa mầu tím hàn kín hai đầu, bên trong đựng 01 viên nén hình tròn mầu hồng đỏ, trên mặt của viên nén có chữ "WY" nghi là ma túy tổng hợp dạng ngựa, do N tự giác giao nộp cho Cơ quan Công an – được niêm phong dán kín vào phong bì thư ký hiệu "02" có lập biên bản niêm phong kèm theo.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave BKS 98B2-73767.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone mầu vàng bị vỡ màn hình Tổ công tác tiến hành dẫn giải người cùng tang vật đến trụ sở Công an phường L lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

"Kết luận giám định số 700/KL-PC54 ngày 06/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

-Trong một phong bì thư có ký hiệu "01" đã được niêm phong gửi giám định: tinh thể mầu trắng đựng trong 01 gói nilon mầu trắng, một đầu có rãnh khóa bằng nhựa viền mầu xanh là chất ma túy Methamphetamine, có khối lượng 0,220 gam.

-Trong một phong bì thư có ký hiệu "02" đã được niêm phong gửi giám định: 01 viên nén hình tròn mầu hồng đỏ, trên một mặt của viên nén có chữ "WY" đựng trong 01 ống hút nhựa mầu tím được hàn kín hai đầu là chất ma túy Methamphetamine, có khối lượng 0,101 gam". 

Quá trình điều tra Nguyễn Đức N khai nhận: Vào khoảng 07 giờ, ngày 04/6/2018, N bắt xe khách từ nhà đi Hà Nội. Khi vừa lên xe khách thì N nhận được điện thoại của nam thanh niên tên thường gọi là "Cheo" (tên thật là Nguyễn Thanh Q, sinh năm 1996, trú tại: số nhà 04, đường Q, phường N, thành phố B) gọi điện bảo N "em đi đến đâu rồi, tới nơi chưa, đến thì gọi cho anh, anh đưa tiền cho lấy ít đồ về mấy anh em ngồi", N đồng ý. N xuống khu vực ngã tư đường Hùng Vương giao với đường L, phường H, thành phố B. Khi vừa xuống xe thì "Cheo" lại gọi điện thoại cho N hỏi N đã đến nơi chưa, N bảo vừa đến thì "Cheo" bảo N "đứng đó xong có thằng em anh mang xe và tiền ra đưa cho đi lấy ít đồ”. N đồng ý, đứng đợi khoảng 5 phút, thì có Hà Văn A, sinh năm 1997, trú tại: tổ dân phố Thành Bắc, phường Xương Giang, thành phố B đến đưa cho N 280.000 đồng và 01 xe máy BKS 98B2-73767 và bảo N "đi vào khu chợ hoa quả, ngõ 86, đường T, phường L, thành phố B gọi bảo em anh "Cheo" thì đưa tiền cho họ và họ đưa lại". N đồng ý cầm tiền và điều khiển xe mô tô trên đi vào khu vực ngõ 86, đường T, phường L, thành phố B. Tại đây, N vào một nhà có cổng sắt và gặp một người thanh niên không quen biết. Qua trao đổi N đưa cho người nam thanh niên trên 280.000 đồng. Nam thanh niên nhận tiền và đưa lại cho N 01 túi nilong mầu trắng bên trong đựng ma túy "đá" và 01 ống nhựa bên trong đựng 01 viên ma túy ngựa. N nhận số ma túy để vào túi quần bên trái đang mặc

và lái xe đi về. Khi đi đến trước cửa khu vực số nhà 79, đường T, phường L, thành phố B, thì bị tổ công tác Công an thành phố B kiểm soát, thu giữ số ma túy N vừa mua được tại túi quần bên trái đang mặc của N.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave BKS 98B2-73767 bị thu giữ. Quá trình điều tra xác định được, chiếc xe mô tô trên thuộc quyền sở hữu hợp pháp của anh Phùng Quốc V, sinh năm 1998, trú tại: số nhà 2, ngõ 86, đường Cao Kỳ Vân, phường T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang. Ngày 02/6/2018, V có cho Hà Văn A mượn chiếc xe trên để đi lại. Sáng ngày 04/6/2018, A cho N mượn chiếc xe trên. Bản thân anh V và Hà Văn A không biết việc N mượn chiếc xe trên để đi mua ma túy. Ngày 29/8/2018, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe mô tô trên cho anh V.

Vật chứng của vụ án gồm: 02 phong bì đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone mầu vàng bị vỡ màn hình được nhập kho vật chứng để xử lý theo đúng quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 158/KSĐT ngày 18/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Nguyễn Đức N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Với nội dung trên bản án hình sự sơ thẩm số 157/2018/HSST ngày 31/10/2018 của Toà án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Giang đã quyết định:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức N 01 năm 01 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 04/6/2018.

Ngoài ra bản án còn tuyên giải quyết vật chứng, án phí, tuyên quyền kháng cáo, các quyền và nghĩa vụ khác.

Ngày 14/11/2018, bị cáo Nguyễn Đức N làm đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Đức N giữ N yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do: án sơ thẩm xử nặng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

Đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang thực hành quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, xem xét các vấn đề kháng cáo mà bị cáo nêu ra đã kết luận và đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức N.

Bị cáo Nguyễn Đức N không có tranh luận gì với quan điểm của Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng của bị cáo Nguyễn Đức N: Đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Đức N nộp theo đúng các quy định của pháp luật nên được coi là đơn kháng cáo hợp pháp cần được chấp nhận để xem xét.

[2] Qua quá trình xét hỏi tại phiên tòa thấy đủ cơ sở xác định: Vào hồi 09 giờ 50 phút, ngày 04/6/2018, tại khu vực trước cửa số nhà 79, đường T, phường L, thành phố B; Tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố B, tiến hành kiểm tra bắt quả tang Nguyễn Đức N có hành vi tàng trữ trái phép 0,321 gam chất ma túy Methamphetamine. Hành vi của bị cáo cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Viện kiểm sát truy tố bị cáo theo tội danh, điều, khoản, điểm trên là có căn cứ.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất gây nghiện. Ma túy là hiểm họa của xã hội, là nguồn gốc phát sinh của nhiều tội phạm, có ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, kinh tế, hạnh phúc của con người. Sử dụng trái phép chất ma túy có thể dẫn đến chết người, làm lây truyền căn bệnh thế kỷ HIV-AIDS.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Nguyễn Đức N thừa nhận toàn bộ hành vi như án sơ thẩm nêu là đúng, không oan. Bản án hình sự sơ thẩm số 157/2018/HS-ST ngày 31/10/2018 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Giang đã xét xử bị cáo Nguyễn Đức N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản12 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức N thấy:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại giai đoạn điều tra và tại phiên toà, bị cáo N khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn ăn, hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Bản án sơ thẩm đã đánh giá và áp dụng cho bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

Án sơ thẩm sau khi đánh giá toàn diện, khách quan hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân dân bị cáo đã xử phạt bị cáo 13 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và không nặng đối với bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Đức N không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới nên Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, cần giữ N bản án sơ thẩm đối với bị cáo N như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang tại phiên tòa là phù hợp với quy định của pháp luật.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội:

Do bị cáo Nguyễn Đức N không được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự.

[1] Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức N. Giữ N bản án sơ thẩm.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức N 13 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 04/6/2018.

[2] Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội:

Bị cáo Nguyễn Đức N phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

329
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2019/HS-PT ngày 31/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:16/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về