TÒA ÁN NHÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 16/2019/HNGĐ-ST NGÀY 06/05/2019 VỀ LY HÔN
Ngày 06 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Tân Uyên tiến hành phiên tòa sơ thẩm công khai xét xử vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số 34/2019/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 02 năm 2019, về việc: Ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22-3-2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2019/QĐST-HNGĐ ngày 10-4-2019, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Thạch Thị Băng T, sinh năm 1970; địa chỉ: Số 01, đường P, tổ 15, khu phố C, phường L, thị xã T, tỉnh Bình Dương; có mặt.
- Bị đơn: Ông Lê Anh X, sinh năm 1966; địa chỉ: Tổ 1, khu phố B, phường T, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 15-01-2019, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Thạch Thị Băng T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà Thạch Thị Băng T và ông Lê Anh X tự nguyện tìm hiểu, được cha mẹ hai bên đồng ý nên tiến hành tổ chức đám cưới và chung sống với nhau vào năm 1990. Bà T và ông X đã đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Sông Bé cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 1263, quyển số 01 vào ngày 02-01-1990.
Thời gian đầu sống hạnh phúc nhưng sau đó thường xuyên cãi nhau do bất đồng quan điểm sống. Bà T và ông X đã sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Từ khi vợ chồng sống ly thân với nhau không ai quan tâm chăm sóc cho nhau nữa. Bà T nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã quá trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên bà T yêu cầu ly hôn với ông X.
- Về con chung: Vợ chồng có 02 người con chung tên Lê Anh T, sinh ngày 02-5-1992 và Lê Như N, sinh ngày 29-12-1993; các con chung đã thành niên nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về tài sản chung, nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nguyên đơn đã cung cấp các tài liệu chứng cứ sau:
+ Bản sao Giấy chứng minh nhân dân của bà Thạch Thị Băng T;
+ Bản sao sổ hộ khẩu gia đình của bà Thạch Thị Băng T và ông Lê Anh X;
+ Bản sao Giấy khai sinh của Lê Anh T và Lê Như N;
+ Bản chính Giấy chứng nhận kết hôn;
Bị đơn ông Lê Anh X được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia tố tụng tại Tòa nhưng vắng mặt không lý do.
Theo biên bản xác minh ngày 04-3-2019 tai Ủy ban nhân dân phường T, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương thì “Ủy ban phường T không nhận được yêu cầu giải quyết tranh chấp về hôn nhân và con chung giữa bà T và ông X; bà T và ông X cũng không yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết, hòa giải khi có mâu thuẫn xảy ra vì vậy không xác định được các ông bà có mâu thuẫn như thế nào trong đời sống hôn nhân”.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên phát biểu tại phiên tòa: Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng và đương sự đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; Thẩm phán xác định quan hệ pháp luật đúng theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên.
Về nội dung: Bà Thạch Thị Băng T và ông Lê Anh X tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Sông Bé (nay là thị xã T, tỉnh Bình Dương) đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 1263, quyển số 01 vào ngày 02-01-1990. Bà Thạch Thị Băng T yêu cầu ly hôn vì vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn không thể hàn gắn, bà T và ông X hiện nay đã sống ly thân với nhau. Con chung Lê Anh T và Lê Như N đã thành niên nên không xem xét giải quyết; về tài sản chung, nợ chung bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó đề nghị Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà T.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát.
[1] Bà Thạch Thị Băng T có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Lê Anh X nên đây là vụ án “Ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; ông Lê Anh X có đăng ký thường trú tại địa chỉ: Tổ 1, khu phố B, phường T, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Ông Lê Anh X đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải vào các ngày 04-3-2019 và 22-3-2019 nhưng ông X vắng mặt không lý do. Tòa án triệu tập hợp lệ ông Lê Anh X tham gia phiên tòa lần thứ nhất vào ngày 10-4-2019 nhưng ông X vắng mặt không có lý do nên Tòa án quyết định hoãn phiên tòa và triệu tập ông X tham gia phiên tòa vào ngày 06-5-2019 nhưng ông X vắng mặt không có lý do là ông X đã từ bỏ quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng của mình tại Tòa án. Do đó, Tòa án căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ để giải quyết vụ án vắng mặt ông X theo quy định tại Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Thạch Thị Băng T và ông Lê Anh X là những người đủ điều kiện kết hôn; ông bà tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Sông Bé (nay là thị xã T, tỉnh Bình Dương) theo đúng quy định của pháp luật và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 1263, quyển số 01 vào ngày 02-01-1990, đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, hiện nay bà T và ông X không còn chung sống với nhau. Do tình cảm vợ chồng không còn, ông bà không thể tiếp tục chung sống với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Ông Lê Anh X đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Điều này cho thấy ông X hoàn toàn không có thiện chí để Tòa án hòa giải vợ chồng đoàn tụ cùng nhau xây dựng gia đình. Xét, mâu thuẫn giữa bà T và ông X đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, ba Thạch Thị Băng T yêu cầu ly hôn với ông Lê Anh X là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.
[4] Về con chung: Bà T và ông X có 02 người con chung tên Lê Anh T, sinh ngày 02-5-1992 và Lê Như N, sinh ngày 29-12-1993 đều đã thành niên nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[5] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.
[6] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật.
[7] Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 146, 147, 228, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Căn cứ Nghi quyết sô 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mưc thu, miên, giam, thu, nôp, quan ly va sư dung án phí va lệ phí của Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Thạch Thị Băng T về việc Ly hôn với ông Lê Anh X như sau:
- Về quan hệ hôn nhân: Bà Thạch Thị Băng T được ly hôn với ông Lê Anh X.
- Về con chung: Các con chung đã thành niên nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Tòa án giải quyết.
2. Về án phí sơ thẩm: Bà Thạch Thị Băng T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0014747, ngày 30-01-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên.
3. Về quyền kháng cáo: Bà Thạch Thị Băng T có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Ông Lê Anh X vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 16/2019/HNGĐ-ST ngày 06/05/2019 về ly hôn
Số hiệu: | 16/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 06/05/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về