Bản án 16/2018/HSST ngày 23/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẠ HÒA, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 16/2018/HSST NGÀY 23/04/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý 20/2018/TLST-HS ngày 03 tháng 4 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử 04/2018/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo:

TRẦN DUY H , sinh năm 1987 tại xã M, huyện H, tỉnh Phú Thọ; nơi cư trú:

Khu 1 xã M, huyện H, tỉnh Phú Thọ;  Nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không;quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Quốc L ( đã chết ) và  bà: Đặng Thị M, sinh năm 1965; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân: Tại bản án số 197/HSST ngày 13/11/2013, TAND Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội xử phạt Hào 24 tháng tù về tội “ tàng trữ trái phép chất ma túy” ( Đã được xóa án tích)

Bị cáo bị bắt giữ ngày 05/01/2018, thay đổi biện pháp ngăn chặn ngày 11/01/2018. Hiện áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại tại xã M, huyện H (Có mặt ) Người bị hại: ( Vắng mặt )

1- Lê Hải Y , sinh ngày 25/10/2000 – Người đại diện: Chị Phùng Thị T, sinh năm 1975 ( Mẹ đẻ) - Khu 10 xã V – H

2- Nguyễn Thị Hồng N, sinh ngày 02/02/2000 – Khu 7 xã H1 – H.

3- Đỗ Thị Khánh L1, sinh ngày 11/9/2001–Người đại diện: Anh Đỗ Quang T, sinh năm 1972 ( bố đẻ ) - Khu 9 xã H2 – H

4- Nguyễn Văn H3, sinh năm 2002 –Người đại diện: Chị Phạm Thu H4, sinh năm 1970(mẹ đẻ)Khu 1 xã Đ – H

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bản cáo trạng số 18/QĐ-KSĐT ngày 30/3/2018 của VKSND huyện Hạ Hòa đã quyết định truy tố  bị cáo Trần Duy H về tội Trộm cắp tài sản  theo khoản 1 điều173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 với các tình tiết phạm tội như sau:

Khoảng 4 giờ 30 phút ngày 05/01/2018 Trần Duy H, sinh năm 1987, HKTT: Khu 1 xã M, huyện H, tỉnh Phú thọ đi lang thang ở khu vực các dãy nhà trọ thuộc khu 3 Thị trấn H với mục đích xem có nhà nào sơ hở để trộm cắp tài sản bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Khi đi đến dãy nhà trọ của chị Trần Thị Bích L thấy điện sáng, cánh cổng khu trọ đóng, H quan sát thấy không có người trông coi, H liền trèo qua cánh cổng chính vào trong dãy trọ. Khi vào đến sân H thấy có phòng trọ số 6 khép cửa nhưng không khóa, H lẻn vào trộm cắp của chị Lê Hải Y, sinh năm 2000 ở khu 10 xã V, huyện H một chiếc điện thoại loại Iphone 5S màu trắng, một chiếc điện thoại Iphone 4S màu trắng đều để ở bàn học; trộm cắp của chị Nguyễn Thị Hồng N, sinh năm 2000 ở khu 7 xã H1, huyện H một điện thoại Samsung J1 màu vàng để ở đầu giường. Ra khỏi phòng trọ số 6 đi lại phòng trọ số 5, thấy cửa không khóa, H lẻn vào trộm cắp của anh Nguyễn Văn H3, sinh năm 2002 ở khu 1 xã Đ, huyện H 01 chiếc điện thoại XIAO redmi 4A màu vàng để ở cuối giường. Sau đó H tiếp tục đi ra ngoài tới phòng trọ số 2 lẻn vào lấy của chị Đỗ Thị Khánh L1, sinh năm 2001 ở khu 9 xã H2, huyện Hạ Hòa 01 chiếc điện thoại Samsung màu trắng và 01 chiếc điện thoại bàn phím nhãn hiệu Qmobie đều để cuối giường. Sau đó H trèo tường ra ngoài và đi về phòng trọ của mình, cất giữ 06 chiếc điện thoại di động vừa trộm cắp được trên giường và đi ngủ tiếp. Sau khi phát hiện mất trộm, các bị hại đã báo công an Thị trấn H và công an huyện Hạ Hòa. Sau khi tiếp nhận nội dung trình báo, cơ quan CSĐT công an huyện Hạ Hòa đã cử cán bộ đến tiến hành khám nghiệm hiện trường, ghi lời khai các bị hại, đồng thời phối hợp với công an thị trấn H thực hiện các biện pháp nghiệp vụ, rà soát các đối tượng nghi vấn. Kết quả rà soát, cơ quan CSĐT đã xác định Trần Duy H là người đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nêu trên. Cơ quan CSĐT đã triệu tập H đến làm việc, quá trình làm việc H đã khai nhận đã thực hiện hành vi trộm cắp 06 chiếc điện thoại tại dãy nhà trọ nêu trên. Cùng ngày, cơ quan CSĐT công an huyện hạ Hòa đã thi hành lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của Trần Duy H tại khu 3 Thị trấn H, huyện H. Quá trình khám xét đã thu giữ tại giường ngủ trong phòng trọ của Hào 06 chiếc điện thoại di động mà H đã trộm cắp.

Ngày 09/01/2018 cơ quan CSĐT đã trưng cầu định giá tài sản đối với 06 chiếc điện thoại trên. Hội đồng định giá huyện Hạ Hòa kết luận; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J1 màu vàng có trị giá 1.500.000đ; chiếc điện thoại XIAO redmi 4A màu vàng có trị giá 2.000.000đ; 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy Ace 2GI-18160 màu trắngcótrị giá 600.000đ; 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Qmobile Q150 màu vàng trị giá 200.000đ; 01 chiếc điện thoại Iphone 5S màu trắng có trị giá 2.000.000đ; 01 chiếc điện thoại Iphone 4S màu trắng có trị giá 500.000đ. Tổng cộng 6.800.000đ. Tại cơ quan điều tra, Trần Duy H khai nhận: Bảnthân H là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp gì. Ngày 04/01/2018 H cùng bạn gái là Nguyễn Thị T, sinh năm 1992 ở tỉnh S đến thuê phòng trọ của nhà anh Nguyễn Tiến D, sinh năm 1979 ở khu 3 Thị trấn H. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày H và bạn gái đi ngủ. Đến khoảng 4 giờ sáng ngày 05/01/2018 H dậy và đi trộm cắp tài sản như nêu trên.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Hạ Hòa giữ nguyên quyết định truy tố và khẳng định bản cáo trạng đã quyết định truy tố  bị cáo Trần Duy H về tội danh và điều luật đã nêu là hoàn toàn đúng.

Đề nghị HĐXX căn cứ vào khoản1 điều 173; điểm s khoản 1 điều 51; khoản 2 điều 47; khoản 1 điều 48–BLHS 2015;  điểm  a khoản 3 điều 106; khoản 1, 2 điều 135; khoản 2 điều 136 - BLTTHS; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Tuyên bố Trần Duy H phạm tội “trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo Trần Duy H từ 8-12 tháng tù, được trừ06 ngày bắt tạm giữ ( từ ngày 05/01/2018 đến ngày 11/01/2018). Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Trần Duy H.

Về xử lý vật chứng: Xác nhận cơ quan CSĐT công an huyện Hạ Hòa đã trả lại tài sản là 06 chiếc điện thoại cho những người bị hại theo biên bản được lập ngày 01/03/2018 là hợp pháp. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1]. Lời khai của bị cáo Trần Duy H tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người bị hại trong vụ án, vật chứng được thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ nên có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 4 giờ 30 phút ngày 05/01/2018 Trần Duy H đã thực hiện hành vi trộm cắp 06 chiếc điện thoại di động của học sinh đang thuê trọ tại khu 3 Thị trấn H, huyện H, tỉnh Phú Thọ. Tổng giá trị của 06 chiếc điện thoại là 6.800.000đ. Hành vi nêu trên của bị cáo Trần Duy H  đã vi phạm  khoản 1 điều 173 của Bộ luật hình sự 2015 và đủ yếu tố cấu thành tội " Trộm cắp tài sản ".Khoản 1 điều 173 BLHS 2015 quy định: “ Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng  đến dưới 50.000.000 đồng …….thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”. Quyết định truy tố của VKSND huyện Hạ Hòa  đối với bị cáo về tội danh và điều luật đã viện dẫn là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2]. Tính chất của vụ án tuy ít nghiêm trọng nhưng hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, xâm phạm trật tự xã hội, gây mất trật tự an ninh trên địa bàn. Chính vì vậy vụ án phải được đưa ra xét xử nghiêm nhằm giáo dục chung và phòng ngừa riêng tội phạm.

[3]. Về nhân thân: Năm 2013 bị cáo đã bị TAND Quận Thanh Xuân xét xử về tội “ tàng trữ trái phép chất ma túy”, đã được xóa án tích. Như vậy bị cáo được xác định không có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên bị cáo không lấy đó làm bài học, không chịu lao động làm ra của cải vật chất mà bị cáo đã lợi dụng sơ hở của các chủ sở hữu trộm cắp tài sản nhằm bán lấy tiền tiêu sài cá nhân. Bị cáo nhận thức rõ hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật và phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng vì muốn có tiền nên bị cáo đã thực hiện hành vi như đã nêu ở trên.

[4].Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không được hưởng  tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51–BLHS 2015 đó là quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải về hành vi phạm tội. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Căn cứ vào tính chất hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng, xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để  bị cáo cải tạo trở thành con người lương thiện cho gia đình và xã hội. HĐXX chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo Trần Duy H.

[5]. Về hình phạt bổ sung:Tại khoản 5 điều 173–BLHS 2015 quy định: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Xét thấy, bị cáo không việc làm, không có tài sản riêng để đảm bảo thi hành án, do vậy HĐXX miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo Trần Duy H.

[6]. Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Tài sản do bị cáo Trần Duy H trộm cắp là 06 chiếc điện thoại di động hiện nay đã thu hồi và được trả lại cho các chủ sở hữu. Cần xác nhận việc trả lại tài sản cho những người bị hại của cơ quan CSĐT công an huyện Hạ Hòa là hợp pháp. Những người bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường bất cứ khoản nào khác. HĐXX không đặt ra giải quyết.

[7].Về tố tụng hình sự: Các quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, hành vi tố tụng của điều tra viên trong quá trình điều tra vụ án; quyết định tố tụng của Viện kiểm sát và hành vi tố tụng của Kiểm sát viên trong giai đoạn truy tố là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSSTtheo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căncứ vào khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1 điều 51; khoản 2 điều 47; khoản 1 điều 48–BLHS 2015; điểm a khoản 3 điều 106; khoản 1, 2 điều 135; khoản 2 điều 136-BLTTHS; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

1.Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Duy H phạm tội Trộm cắp tài sản.

2.Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Duy H 08 (Tám) tháng tù, được trừ 06 ngày bắt tạm giữ ( từ ngày 05/01/2018 đến ngày 11/01/2018), còn lại phải chấp hành 07 ( bảy ) tháng 24 ( hai mươi bốn ) ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày thi hành án.

3. Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Trần Duy H.

4. Về trách nhiệm dân sự: Những người bị hại không yêu cầu bị cáo Trần Duy H phải bồi thường, HĐXX không đặt ra giải quyết.

5.Về xử lý vật chứng: Xác nhận cơ quan CSĐT công an huyện Hạ Hòa đã trả lại cho: Đỗ Thị Khánh L–Người đại diện: Đỗ Quang T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu trắng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Qmobile Q150 vỏ màu vàng bên trong có lắp thẻ sim 01669885356 theo biên bản được lập ngày 01/03/2018 là hợp pháp.

Nguyễn Thị Hồng N 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng đồng theo biên bản được lập ngày 01/03/2018 là hợp pháp.

-Lê Hải Y–Người đại diện: Phùng Thị T1 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 4S màu trắng đã cũ và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5Smàutrắng đã cũ theo biên bản được lập ngày 01/03/2018 là hợp pháp.

 Nguyễn Văn H3–Người đại diện: Phạm Thu H4 01 điện thoại di động nhãn hiệu XIAO redmi 4A màu vàng viền trắng theo biên bản được lập ngày 01/03/2018 là hợp pháp.

6.Về án phí HSST: Buộc bị cáo Trần Duy H phải chịu 200.000đ ( Hai trăm nghìn đồng ).

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo. Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo lên TAND tỉnh Phú Thọ để yêu cầu xét xử phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao nhận bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại UBND nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

243
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2018/HSST ngày 23/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:16/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hạ Hoà - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về