Bản án 16/2017/HNGĐ-ST ngày 29/11/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN HƯNG, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 16/2017/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2017 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 29 tháng 11 năm 2017 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tân Hưng,tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 101/2017/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 10 năm 2017 về tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2017/QĐXX-ST ngày 08 tháng 11 năm 2017, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Kim T, sinh năm: 1995 (có mặt).

Trú tại: Ấp 1/5, xã A, huyện H, tỉnh A.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn P, sinh năm: 1994 (có mặt).

Trú tại: Ấp N, xã A, huyện H, tỉnh A.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 21 tháng 09 năm 2017 và tại phiên toà nguyên đơn chị Lê Thị Kim T trình bày:

1. Về hôn nhân: Có tự nguyện kết hôn với anh Nguyễn Văn P vào năm 2015, đến ngày 21/12/2015 mới đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Thời gian đầu chung sống hòa thuận, đến đầu năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn.

Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng ý kiến trong đời sống hàng ngày, anh P thường xuyên xúc phạm danh dự, nhân phẩm chị T và không quan tâm chăm sóc gia đình, hiện nay chị T và anh P đã sống ly thân từ tháng 03 năm 2017 cho đến nay. Chị T thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa. Vì vậy, chị T yêu cầu Tòa ángiải quyết được ly hôn với anh P.

2. Về con chung:

Chị T khai, trong quá trình chung sống với anh P, vợ chồng có một con chung Nguyễn Lê Phương N, sinh ngày 09/09/2016. Trong thời gian sống ly thân anh P là người trực tiếp nuôi dưỡng con. Nay chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con, chị T không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản ghi lời khai ngày 17/10/2017, ngày 07/11/2017 và tại phiên tòa bị đơn anh Nguyễn Văn P trình bày: Thừa nhận có kết hôn với chị T, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Quá trình chung sống có một con chung Nguyễn Lê Phương N, sinh ngày 09/09/2016. Trong thời gian chung sống, vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, ngày 14/03/2017 chị T viết đơn ly hôn gửi Ủy ban nhân dân xã A và tự nguyện giao con lại cho cha mẹ chồng nuôi dưỡng, rồi chị T đi đâu anh không biết. Nay anh P đồng ý ly hôn, về con anh P yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con, không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản không yêu cầu giải quyết.

Tòa án tiến hành hòa giải, nhưng các bên không thống nhất được việc đoàn tụ gia đình. Chị T yêu cầu được ly hôn, anh P đồng ý ly hôn, các bên không thỏa thuận được việc nuôi dưỡng con.

Chị Lê Thị Kim T khởi kiện anh Nguyễn Văn P về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ nên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Hưng tham gia phiên tòa.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán là đúng quy định; của Hội đồng xét xử đều đúng quy định của pháp luật, việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định pháp luật. Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án: Quan hệ hôn nhân giữa chị T với anh P là quan hệ hôn nhân hợp pháp, nay giữa các bên xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài nên chị T khởi kiện ly hôn, anh P đồng ý ly hôn, căn cứ Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự thuận tình ly hôn.

Về nuôi con, giữa chị T và anh P đều có yêu cầu được nuôi con chung, đây là nguyện vọng chính đáng. Tuy nhiên, xét về điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì anh P có điều kiện hơn. Mặt khác, khi chị T, anh P sống ly thân từ tháng 03 năm 2017 cho đến nay thì anh P là người trực tiếp nuôi con, hiện cháu vẫn sống tốt. Để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cháu N, căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh P. Về cấp dưỡng nuôi con, về tài sản anh P không yêu cầu nên không đề cập đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về thủ tục tố tụng:

Tòa án thụ lý giải quyết và xác định quan hệ tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” là đúng thủ tục tố tụng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

2. Về nội dung vụ án:

 [1] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Lê Thị Kim T với anh Nguyễn Văn P là hợp pháp. Quá trình chung sống do hai bên bất đồng quan điểm sống nên dẫn đến va chạm, mâu thuẫn, mất lòng tin với nhau. Chị T, anh P đều thừa nhận vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bất đồng ý kiến, hiện nay mỗi người sống mỗi nơi nên tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị T với anh P đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị T, anh P đồng ý thuận tình ly hôn là có căn cứ theo Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia đình, được Hội đồng xét xử ghi nhận.

[2] Về con chung: Chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi con Nguyễn Lê Phương N, sinh ngày 09/09/2016. Anh P không đồng ý và cho rằng chị T đã viết đơn ly hôn ngày 14/03/2017 và tự nguyện giao con cho anh nuôi dưỡng cho đếnnay, nên anh P không đồng ý giao con cho chị T nuôi dưỡng, anh P yêu cầu được tiếp tục nuôi con.

Xét thấy: Việc chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng Nguyễn Lê Phương N, sinh ngày 09/09/2016 là có căn cứ theo khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, bởi vì cháu N dưới 36 tháng tuổi, nhưng do chị T đã tự nguyện giao con cho anh P nuôi dưỡng vào ngày 14/03/2017 khi cháu N mới 06 tháng tuổi, anh P vẫn chăm sóc tốt cháu N cho đến nay. Mặt khác, hiện nay chị T đang trông trẻ con thuê cho chị ruột, chưa có nơi ở ổn định nên không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc con. Như vậy, cần giao cháu Nguyễn Lê Phương N cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng là có căn cứ theo Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu nên không đề cập đến.

[4] Về tài sản: Không yêu cầu nên không đề cập đến.

[5] Về án phí:

Theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 26, 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị T phải chịu 300.000 đồng tiền án phí Hôn nhân sơ thẩm. Anh P không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39 và 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 51, 53, 55, 57, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;Điều 26, 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân:

Chị Lê Thị Kim T và anh Nguyễn Văn P đồng ý thuận tình ly hôn.

2. Về con chung:

Anh Nguyễn Văn P được tiếp tục nuôi dưỡng con chung Nguyễn Lê Phương N, sinh ngày 09/09/2016.

Chị T không trực tiếp nuôi con nhưng được quyền đến thăm nom, chăm sóc giáo dục con, không ai được quyền ngăn cản chị T thực hiện quyền này.

Vì lợi ích của con, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôicon.

3. Về án phí:

Chị Lê Thị Kim T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0003928 ngày 27 tháng 09 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H; chị T đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Anh P không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Các đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

572
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2017/HNGĐ-ST ngày 29/11/2017 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:16/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Hưng - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về