Bản án 16/2017/HNGĐ-ST ngày 29/09/2017 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁT HẢI, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 16/2017/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2017 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 17/2017/TLST-HNGĐ ngày 12/4/2017 về  Ly hôn và tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2017/QĐXXST - HNGĐ ngày 05/9/2017 và Quyết định hoãn phiên toà số 09/2017/QĐST-HNGĐ Ngày 22/09/2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị C, sinh năm 1974

Địa chỉ: Xã Đ, huyện H, thành phố Hải Phòng; có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1966

Địa chỉ: Xã B, huyện H, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 04/3/2017 và các lời khai tại Toà án nhân dân huyện Cát Hải của nguyên đơn chị Lê Thị C trình bày như sau:

Về hôn nhân: Tháng 01/2002 chị và anh Nguyễn Văn H có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện H, thành phố Hải Phòng, hôn nhân trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Trong quá trình chung sống anh chị sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn đến năm 2009 mâu thuẫn trở nên căng thẳng, trầm trọng. Nguyên nhân là do anh H hay cờ bạc, rượu chè, trai gái, không quan tâm tới vợ con, hai bên thường phát sinh cãi cọ, gây gổ làm cho gia đình luôn căng thẳng, sau đó anh H bỏ đi từ thời gian đó đến nay. Hiện nay tình cảm giữa hai bên đã không còn anh chị đã sống ly thân từ năm 2009 đến nay nên chị C đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn H.

Về con chung: Chị và anh Nguyễn Văn H có một con chung là Lê Huy A, sinh ngày 19/9/2003 nếu Toà án giải quyết cho ly hôn thì đề nghị cho chị được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con và không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Chị và anh Nguyễn Văn H không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Toà án nhân dân huyện Cát Hải đã tiến hành triệu tập bị đơn là anh Nguyễn Văn H để cung cấp lời khai, tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải để hai bên đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên anh Nguyễn Văn H cố tình không thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình vì vậy Tòa án nhân dân huyện Cát Hải đã tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ. Qua xác minh tại địa phương nơi Chị C và anh H sinh sống đều xác định: Chị C và anh H kết hôn năm 2002 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Đ. Trong quá trình chung sống giữa hai bên đã phát sinh nhiều mâu thuẫn do va chạm trong cuộc sống vợ chồng, đã được chính quyền, đoàn thể xã hội hòa giải nhưng chỉ được một thời gian ngắn. Hiện tại mâu thuẫn trở nên trầm trọng hai bên đã sống ly thân mỗi người một nơi từ nhiều năm nay.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải phát biểu ý kiến như sau:

Về mặt tố tụng, quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật; nguyên đơn tuân thủ nghiêm chỉnh yêu cầu của Tòa án, thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn cố tình không đến Tòa án.

Về nội dung vụ án, thấy rằng quan hệ hôn nhân giữa chị Lê Thị C và anh Nguyễn Văn H đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu của chị Lê Thị C được ly hôn với anh Nguyễn Văn H. Căn cứ vào Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình giao con chung Nguyễn Huy A cho chị Lê Thị C trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; tạm hoãn nghĩa vụ cấp dương nuôi con cho anh Nguyễn Văn H. Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền của Tòa án: Đây là vụ án về Ly hôn và tranh chấp nuôi con quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền của Tòa án. Trong đó nguyên đơn là chị Lê Thị C và bị đơn là anh Nguyễn Văn H đều có địa chỉ tại huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Cát Hải.

[2]  Về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án: Toà án đã tiến hành triệu tập bị đơn nhiều lần để lấy lời khai, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải để hai bên đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án theo quy định tại Điều 205, 208 và Điều 209 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên anh Nguyễn Văn H vẫn cố tình không đến Tòa án để giải quyết vụ án gây cho việc giải quyết vụ án gặp rất nhiều khó khăn. Toà án niêm yết công khai giấy triệu tập, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và các giấy tờ khác có liên quan tại nơi cư trú của bị đơn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, đã Quyết định đưa vụ án ra xét xử ngày 15/9/2017 nhưng anh H vẫn vắng mặt nên đã phải hoãn phiên tòa. Mặc dù tại phiên tòa hôm nay anh Nguyễn Văn H vắng mặt nhưng đã có yêu cầu xét xử vắng mặt nên căn cứ Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành phiên tòa.

[3] Về quan hệ vợ chồng: Chị C và anh H có đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, đây là quan hệ hôn nhân phù hợp với quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình nên được pháp luật bảo vệ.

Quá trình chung sống do hai bên có những bất đồng quan điểm sống, do tính cách sống của hai vợ chồng không có điểm chung, bên cạnh đó anh H thường xuyên rượu chè, chơi bời không quan tâm đến vợ, con nên giữa hai bên đã phát sinh cãi vã, gây gổ, xúc phạm nhau dẫn đến mẫu thuẫn trong gia đình, đặc biệt hai anh chị đã sống ly thân từ năm 2009 đến nay không còn quan tâm đến nhau. Mặt khác Tòa án đã triệu tập nhiều lần nhưng anh H vẫn không đến để giải quyết vụ án điều đó chứng tỏ anh H đã không còn tha thiết với hạnh phúc gia đình. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy, việc chị C yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn là có căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình nên cần chấp nhận.

[4] Về con chung: Chị C đề nghị giao con chung Nguyễn Huy A, sinh ngày 19/9/2003 cho chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con. Yêu cầu của chị Lê Thị C phù hợp nguyện vọng của cháu Nguyễn Huy A mặt khác cháu đã sống với mẹ từ khi mới sinh cho đến nay vì vậy cần chấp nhận yêu cầu đó.

[5] Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Mặc dù yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị C được chấp nhận nhưng căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án chị C vẫn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về quan hệ vợ chồng: Áp dụng Điều 28, Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị C; chị Lê Thị C được ly hôn với anh Nguyễn Văn H.

2. Về con chung: Áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình: Giao con chung Nguyễn Huy A, sinh ngày 19/9/2003 cho chị Lê Thị C trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho anh Nguyễn Văn H.

Sau khi ly hôn không ai được quyền cản trở việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở và không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Chị Lê Thị C phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm được trừ đi số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cát Hải theo biên lai thu tiền số 0003972 ngày 11/4/2017.

4. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án nguyên đơn có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm. Bị đơn có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai tại nơi cư trú.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

316
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2017/HNGĐ-ST ngày 29/09/2017 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:16/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cát Hải - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về