TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 161/2020/HS-PT NGÀY 16/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 16/11/2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 128/2020/TLPT-HS ngày 15/10/2020 đối với các bị cáo Trương Thị Ngọc H1 và Trần Văn H do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 44/2020/HS-ST ngày 09/9/2020 của Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
Các bị cáo có kháng cáo:
1. TRƯƠNG THỊ NGỌC H1 (H1 KH), sinh ngày: 30/8/1970 tại Đà Nẵng; Nơi cư trú: Phòng xx, Khu x, Chung cư P, tổ xx, phường Hòa Thọ Đông, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng; Trình đ ộ học vấn: 02/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Con ông Trương Văn K (c) và Bà Lê Thị S (c). Gia đình có 04 ngư ời con, bị cáo là con út; Có chồng Nguyễn Minh V, sinh năm:
1975 (đã ly hôn); Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2008:
Tiền án, tiền sự: Không:
Bị cáo đang tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo Trương Thị Ngọc H1: Bà Dương Kim Huệ, Luật sư của Văn phòng Luật sư Kim Huệ. Địa chỉ: 20 Nguyễn Du, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
2. TRẦN VĂN H, sinh ngày: 11/11/1973 tại Đà Nẵng ; Nơi cư trú: Tổ xx, phường Hòa Thọ Đông, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng ; Trình độ học vấn: 06/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Thợ nhôm; Con ông Trần Văn C (s) và Bà Phạm Thị Q (s). Gia đình có 05 người con, bị cáo là con thứ hai ; Vợ Trần Thị Ng, sinh năm 1985 (đã ly hôn); Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2014:
Tiền án, tiền sự: Không:
Bị cáo đang tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo Trần Văn H: Ông Nguyễn Thành Đá, Luật sư của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước Tp. Đà Nẵng. Địa chỉ: Trung tâm trợ giúp pháp lý thành phố Đà Nẵng - Số 06 đường Hà Đông 1, phường Xuân Hà, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 30/12/2019, Trần Văn H điều khiển xe mô tô BKS: 43C1-656.xx chở Trương Thị Ngọc H1 đến quán nhậu TR(số XX Lê Đại Hành, Hòa Thọ Đông, quận Cẩm Lệ) ăn tối. Khoảng 30 phút sau, chị Nguyễn Thị Kim T đi cùng khoảng 10 người bạn đến quán TR liên hoan và ngồi bàn dài phía bên phải, vuông góc với bàn của H và H1 đang ngồi. Chị T ngồi quay lưng về phía H, ngay đối diện bên phải vị trí H và H1 đang ngồi và cách nhau khoảng 3m.
Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, chị T đi ra ngoài và để lại túi xách màu xanh trên ghế. H1 thấy và nảy sinh ý định trộm cắp tài sản nên nói với H: “anh, con kia để quyên túi xách anh kìa”. H nhìn thấy túi xách, hiểu ý của H1 muốn lấy trộm túi xách nên nói: “Em ngon thì qua lấy đi”. Cả hai quan sát chừng 5 phút sau, thấy có điều kiện phù hợp thì H1 tiến đến chỗ ghế trống, cầm túi xách mang lại về chỗ ngồi, lấy mũ vải màu đỏ của H đang đội trên đầu úp lên túi màu xanh vừa trộm nhằm tránh bị phát hiện. Sau đó H1 đem túi xách này ra treo ở phía trước khung kim loại bảo vệ xe của H và lấy mũ đỏ che ở bên ngoài. Một lát sau, cả hai cùng rời khỏi quán đến nhà trọ TT tại XX đường Trường Chinh, p hường Hòa Phát, quận Cẩm Lệ.
Tại đây, H1 kiểm tra túi của chị T thì thấy có số tiền 6.800.000 đồng; 01 tờ Đô la Mỹ mệnh giá 100 đô; 01 ví cầm tay màu nâu kích thước 15x5 cm; 01 ví cầm tay màu đen kích thước 10x5cm; 03 miếng vàng 999.9 loại 01 chỉ được bọc trong vỏ nhựa có ghi xuất xứ:“sản xuất tại công ty PNJ”, đặc điểm như sau: 01 miếng vàng hình Elip được khắc chữ “Lộc”, 01 miếng vàng hình Elip được khắc chữ “Tài”, 01 miếng vàng hình tròn có hình thần tài; 01 túi vải màu đỏ bên trong có 01 sợi dây chuyền bằng vàng Ý màu trắng kèm theo 01 mặt dây chuyền hình Phật và 01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng; 01 chiếc khuyên tai bằng kim loại màu vàng mặt trên có đính 01 viên đá lớn màu vàng xung quanh có 04 viên đá nhỏ màu trắng; và các loại giấy tờ đứng tên Nguyễn Thị Kim T gồm: 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ ATM ngân hàng Phương Đông, 01 thẻ ATM ngân hàng Vietcombank, 01 thẻ ATM ngân hàng Agribank, 01 thẻ Mega market, 01 thẻ Matiz, 01 thẻ reward Plus, 01 thẻ Helio Center. Sau đó, H1lấy miếng vàng có chữ Lộc nhưng vứt bỏ phần vỏ nhựa lại trên giường, cùng toàn bộ tiền mặt và các loại giấy tờ của chị T cất giữ trong túi màu đen của H1. H thì cất giữ 02 miếng vàng còn nguyên vỏ nhựa, 01 chiếc khuyên tai, 01 vỏ nhựa bọc miếng vàng có chữ Lộc.
H1 đem túi xách màu xanh cùng hai ví cầm tay vứt ở bãi đất trống bên cạnh nhà trọ, rồi đi với H đến tiệm vàng xx (tại số xxxx Ông Ích Khiêm, phường Tân Chính, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng) mua cho H một sợi dây chuyền vàng dài khoảng 27 cm có giá 5.880.000 đồng. H1 lấy ra 5.300.000 đồng từ số tiền trộm cắp được và H góp thêm 580.000 đồng từ tiền cá nhân để thanh toán. Tại đây, H1 lấy túi vải màu đỏ đựng hai sợi dây chuyền của chị T ra nhờ H đeo vào cổ, rồi cả hai đi đến nhà nghỉ B tại số XX Nguyễn Tất Thành, phường Xuân Hà, quận Thanh Khê thuê phòng ngủ.
Sáng ngày 31/12/2019,H1 lấy ra 500.000 đồng từ số tiền trộm được đưa cho H và cùng về nhà, thì bị Công an quận Cẩm Lệ mời về làm việc.
Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 35.160.146 đồng.
Tại bản kết luận giám định pháp y tâm thần số 261/KLGĐ ngày 27/4/2020 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực miền Trung xác định tại thời điểm gây án và hiện tại Trương Thị Ngọc H1 bị hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 44/2020/HS-ST ngày 09/9/2020 của Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng đã QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS Xử phạt bị cáo Trần Văn H 09 (chín) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án .
Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; Điểm b, i, s, q khoản 1 Điều 51 BLHS:
Xử phạt: bị cáo Trương Thị Ngọc H1 06 (sáu) tháng tù.Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo bản án.
Ngày 12/9/2020, bị cáo Trương Thị Ngọc H1 có đơn kháng cáo với nội dung: Xin cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, cho bị cáo được hưởng án treo.
Ngày 14/9/2020, bị cáo Trần Văn H có đơn kháng cáo với nội dung: Xin cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, cho bị cáo được hưởng án treo.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:
Về t hủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của các bị cáo Trương Thị Ngọc H1 và bị cáo Trần Văn H theo đúng thủ tục và trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ.
Về nội dung: Xét về nội dung đơn kháng cáo củ a các bị cáo thì thấy : Bản án hình sự sơ thẩm số : 44/2020/HS-ST ngày 09/9/2020 của Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng đã xét xử các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản ” theo khoản 1 Điều 173 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Trương Thị Ngọc H1 mức án 06 tháng tù và bị cáo Trần Văn H 09 tháng tù là phù hợp, không nặng. Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, đ ề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 BLTTHS không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
- Luật sư Nguyễn Thành Đá phát biểu: đề nghị Hội đồng xét xử xem xét nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ để xem xét hình phạt, cũng như hoàn cảnh của bị cáo đang nuôi con nhỏ, cho bị cáo hưởng án treo để bị cáo có cơ hội học tập, cải tạo tốt.
- Luật sư Dương Thị Kim Huệ phát biểu: đề nghị Hội đồng xét xử xem xét nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, hiện nay bị cáo đang nuôi con nhỏ, hạn chế năng lực hành vi, mỗi tháng phải đi lấy thuốc ở bệnh viện tâm t hần 02 lần; nên đề nghị cho bị cáo hưởng án treo để bị cáo có điều kiện chăm sóc con nhỏ và chữa bệnh.
Các bị cáo Trương Thị Ngọc H1 và bị cáo Trần Văn H giữ nguyên kháng cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đơn kháng cáo, cho các bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Trương Thị Ngọc H1 và bị cáo Trần Văn H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó HĐXX có đủ cơ sở để khẳng định: Vào ngày 30/12/2019, tại quán nhậu TR, lợi dụng sự lơ là, mất cảnh giác trong việc bảo quản tài sản của chị Nguyễn Thị Kim T, bị cáo Trương Thị Ngọc H1 và Trần Văn H đã có hành vi lén lút trộm cắp tài sản của chị T với tổng giá trị tài sản là 35.160.146 đồng. Vì vậy, Bản án hình sự sơ thẩm số 44/2020/HS-ST ngày 09/9/2020 của Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng đã xét xử các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2]. Xét nội dung đơn kháng cáo của các bị cáo Trần Văn H và Trương Thị Ngọc H1, HĐXX thấy rằng: Các bị cáo là người đã trưởng thành, có sức khoẻ để lao động kiếm sống nhưng không lo tu chí làm ăn mà lợi dụng sự sơ hở của người bị hại để chiếm đoạt tài sản của họ. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Do đó đối với các bị cáo phải xử lý một mức án tương xứng, nhằm răn đe, giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Đối với bị cáo Trần Văn H là một người có đầy đủ năng lực hành vi, biết trộm cắp tài sản của người khác là sẽ bị pháp luật xử phạt nhưng bị cáo vẫn vẫn xúi giục bị cáo H1 trộm cắp. Sau khi lấy được tài sản, H chở H1 cùng tài sản đi trốn nhằm tránh sự tìm kiếm của bị hại. Xét Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng theo quy định pháp luật, xử phạt bị cáo Trần Văn H mức án 09 tháng tù là phù hợp, không nặng. Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, HĐX X không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn H, giữ nguyên Bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng là phù hợp. Đối với bị cáo Trương Thị Ngọc H1 có nhiều tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS, nên HĐXX chấp nhận kháng cáo của bị cáo cũng như luận cứ bào chữa của luật sư, giữ nguyên mức hình phạt nhưng cho bị cáo được hưởng án treo. Tuyên giao bị cáo về UBND phường Hòa Thọ Đông nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục cũng có tác dụng.
[3]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4]. Bị cáo Trương Thị Ngọc H1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Trần Văn H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào : Điểm a, b Khoản 1 Điều 355; Điều 356 và điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự .
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Trương Thị Ngọc H1, sửa Bản án sơ thẩm.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn H, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; Điểm b, i, s, q khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt: bị cáo Trương Thị Ngọc H1 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
Tuyên giao bị cáo về Uỷ ban nhân dân phường Hòa Thọ Đông, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự 2019.
Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 (hai) lần trở lên, thì Tòa án có thể buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; Điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt: bị cáo Trần Văn H 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản ”.
Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
2. Về án phí: Buộc bị cáo Trần Văn H phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Trương Thị Ngọc H1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm .
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 161/2020/HS-PT ngày 16/11/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 161/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về