Bản án 161/2019/HSST ngày 26/06/2019 về tội chứa mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 161/2019/HSST NGÀY 26/06/2019 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 26 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lY số: 138/2019/TLST-HS, ngày 27 tháng 5 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 155/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Phạm Văn T1; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 16 tháng 11 năm 1985; Tại: tỉnh Đắk Lắk;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn H, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Đường N, phường T, Thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn L; Con bà: Phạm Thị M; Bị cáo có vợ là Nguyễn Ngọc Quỳnh N (đã ly hôn); có 02 con, con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2017.

Tiền sự: Không Tiền án: Không;

Nhân thân: Ngày 23/7/2007, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 (một) năm tù, về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số 174/2007/HSPT).

Bị cáo bị bắt ngày 04/01/2019, hiện đang tạm giam - Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Nguyễn Viết T2; Tên gọi khác: Không; sinh ngày 19 tháng 5 năm 1986

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Thôn H, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk;

Nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Viết T; con bà: Trần Thị L;

Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị H; có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2017. Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt ngày 25/4/2019, hiện đang tạm giam - Có mặt tại phiên tòa.

3. Họ và tên: Nguyễn Phan L; Tên gọi khác: C; sinh ngày 04 tháng 04 năm 1986;

Tại: tỉnh Đắk Lắk; Nơi đăng kY hộ khẩu thường trú: Thôn H, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Đường N, phường T, Thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. 

Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: không biết chữ; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn L; Con bà: Nguyễn Thị T (đã chết);

Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án: Không; Tiền sự: Không. 

Bị cáo bị bắt ngày 04/01/2019, hiện đang tạm giam - Có mặt tại phiên tòa.

4. Họ và tên: Nguyễn Thị Như Y; Tên gọi khác: N; Sinh ngày 30 tháng 6 năm 1998; tại: tỉnh Đắk Lắk;

Nơi đăng kY hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố L, phường T, Thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi. 

Nơi cư trú: Đường N, phường T, Thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

Nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn P; con bà: Trần Thị L; Bị cáo chưa có chồng, con.

Tiền án: Không; Tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt ngày 04/01/2019, hiện đang tạm giam - Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Phạm Đức C, sinh năm 1967- vắng mặt

Địa chỉ: Đường N, phường T, Thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

2. Bà Trần Thị H, sinh năm 1964 - vắng mặt

Địa chỉ: Thôn H, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk

3. Chị Võ Thị Thủy T3, sinh năm 1982 - vắng mặt

Địa chỉ: Đường N, Thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào tháng 8 năm 2018, Nguyễn Viết T2 sang lại quán cà phê Thiên Đường và 02 tiệm cắt tóc nam U và B tại địa chỉ số đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, từ Lê Quang H với giá 50.000.000 đồng, nhằm mục đích chứa mại dâm và bán cà phê. Sau đó, T2 gọi điện thoại rủ Phạm Văn T1 cùng làm chung, T1 đồng ý. T1 là người ký hợp đồng thuê lại quán cà phê T và tiệm cắt tóc nam U của ông Phạm Đức C, với giá 2.000.000 đồng/01 tháng; còn tiệm cắt tóc nam B thì T2 nhờ bạn tên là T (chưa xác định lai lịch) ký hợp đồng thuê của bà Trần Thị H với giá 1.000.000 đồng/01 tháng. T2 và T1 thống nhất là T2 trả tiền thuê nhà trước 03 tháng với tổng số tiền là 9.000.000 đồng, còn các tháng còn lại T1 sẽ trả.

Hàng ngày, T1 quản lý hoạt động bán cà phê và thu tiền của người bán dâm, rồi đưa lại cho T2 từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng (tiền hưởng lợi từ việc chứa mại dâm) còn lại T1 hưởng, ngày nào không có khách mua dâm thì T1 không phải đóng tiền cho T2. Từ tháng 9/2018 đến ngày 03/01/2019 khi bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột phát hiện bắt quả tang thì T1 đã thu được 40.000.000 đồng, đưa cho T2 tổng số tiền 18.000.000 đồng.

Trong thời gian quán cà phê T và 02 tiệm cắt tóc nam U, B hoạt động, T1 thuê Nguyễn Phan L quản lý, thu tiền trong ngày từ người bán dâm bằng cách: T1 đưa cho L 01 quyển vở, mỗi lần khách đến mua dâm, L đánh dấu “X” dưới tên của người bán dâm để cuối ngày tính tổng số lượt đã bán dâm trong ngày. T1 đã trả cho L 9.000.000 đồng. Những người bán dâm ban đầu gồm có V, T, N (chưa xác định lai lịch), T1 thỏa thuận với người bán dâm mỗi lượt bán dâm phải chia cho T1 số tiền 80.000 đồng/01 lượt, số tiền còn lại người bán dâm được hưởng lợi. Làm được một thời gian đến tháng 11 năm 2018, V, T, N nghỉ không bán dâm nữa. Lúc này, T2 biết được Nguyễn Thị Như Y (tên thường gọi là N) là người bán dâm nên T2 gọi điện thoại di động rủ Y bán dâm thì Y đồng ý. T2 nhờ Y ký hợp đồng thuê lại tiệm cắt tóc nam B từ T.

Sau đó, Y rủ thêm Nguyễn Thị Thanh T và người tên M (chưa xác định lai lịch) đến địa chỉ trên để bán dâm thì M và Thì đồng ý. Vào đầu tháng 12 năm 2018, T1 và Y có quan hệ tình cảm yêu đương nên T1 không cho Y bán dâm nữa, mà giao nhiệm vụ cho Y cùng với L quản lý, thu tiền trong ngày từ người bán dâm rồi đưa cho T1. Những lúc T1 đi vắng thì Y vẫn bán dâm để thu lợi bất chính.

Ngày 03/01/2019, quán mở cửa hoạt động bán cà phê và mua bán dâm bình thường. T1 có việc đi ra ngoài nên giao quán lại cho L và Y quản lý, thu tiền từ người bán dâm. Khoảng 13 giờ đến 15 giờ cùng ngày, T lần lượt bán dâm cho 02 người đàn ông (chưa xác định lai lịch) tại tiệm cắt tóc nam U với giá 200.000 đồng/lượt/01 người. Đồng thời trong khoảng thời gian này có 03 người đàn ông (chưa xác định lai lịch) lần lượt đến mua dâm, 02 người quan hệ tình dục với M, người còn lại quan hệ tình dục với Y. Sau khi bán dâm xong, Y nhận 200.000 đồng từ người mua dâm, M đưa cho Y số tiền 160.000 đồng (là tiền bán dâm 02 lượt trong ngày của M) rồi M ra về. Y đưa cho T1 số tiền 300.000 đồng.

Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, có Hoàng Minh T4 và Nguyễn Đức T5 đến quán cà phê T hỏi L mua dâm, L ra giá 300.000 đồng/01 người/01 lượt, thì T4, T5 đồng ý. T4 cho riêng L 50.000 đồng, L hướng dẫn T5 qua tiệm cắt tóc nam B để quan hệ tình dục với T; còn T4 quan hệ tình dục với Y tại tiệm cắt tóc nam U. Sau khi quan hệ tình dục với nhau xong, T4 đưa cho Y 500.000 đồng (T4 cho thêm Y 200.000 đồng), T5 đưa cho T 300.000 đồng. Sau đó, Lê Viết Hvà Phạm Mạnh T6 đi đến quán cà phê gặp L hỏi mua dâm, L ra giá 300.000 đồng/01 người/01 lượt thì H và T6 đồng ý mua dâm. Thì bán dâm xong đưa cho L 300.000 đồng (là tiền bán dâm trong ngày của T). Y bán dâm xong, L đưa cho Y 300.000 đồng (là tiền bán dâm của T), L nói Y, T tiếp tục bán dâm cho H và T6. Đến khoảng 19 giờ 45 cùng ngày, T1 vừa quay trở lại quán cà phê T, trong khi H đang quan hệ tình dục với Y tại tiệm cắt tóc nam U, còn T6 đang quan hệ tình dục với T tại tiệm cắt tóc nam B thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk phát hiện bắt quả tang.

Đồ vật, tài liệu bị tạm giữ:

- 02 bao cao su, 02 vỏ bao cao su đều đã qua sử dụng; 01 quyển vở kẻ ôli.

- Số tiền 1.300.000 đồng (trong đó 1.000.000 đồng tiền bán dâm của Y, 300.000 đồng tiền bán dâm của T) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 6 Plus, màu hồng, số Imei: 355730071009370 của Nguyễn Thị Như Y.

- Số tiền 700.000 đồng của Nguyễn Thị Thanh T.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, màu xám, số Imei1: 356446086437246, số Imei2: 356447086437244 của Phạm Văn T1.

- Số tiền 550.000 đồng (trong đó có 50.000 đồng tiền T4 cho L; 500.000 đồng của T1 thu lợi từ việc chứa mại dâm cho người tên M (chưa xác định lai lịch) mượn, khi M đến trả cho T1 nhưng không gặp nên L giữ hộ) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu KECHAODA, màu xanh đen, số Imei1: 868758011870718, số Imei2: 868758011870726 của Nguyễn Phan L.

Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung trên và không có ý kiến gì, mà chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

Bản cáo trạng số: 156/CT-VKS ngày 20/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk đã truy tố các bị cáo Phạm Văn T1, Nguyễn Viết T2, Nguyễn Phan L và Nguyễn Thị Như Y về tội “Chứa mại dâm” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 327 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã phân tích, chứng minh hành vi phạm tội của các bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Phạm Văn T1, Nguyễn Viết T2, Nguyễn Phan L và Nguyễn Thị Như Y theo bản cáo trạng số 156/CT-VKS ngày 20/5/2019 và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 327; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn T1 mức án từ 06 năm 06 tháng tù đến 07 năm tù.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Phan L mức án từ 06 năm đến 06 năm 06 tháng tù.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Như Y mức án từ 06 năm đến 06 năm 06 tháng tù.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 327; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Viết T2 mức án từ 06 năm 06 tháng đến 07 năm tù.

Đối với số tiền thu lợi bất chính từ việc bán dâm của Nguyễn Thị Như Y, Y khai nhận đã tiêu xài cá nhân hết và không xác định được là bao nhiêu nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung phạt Nguyễn Thị Như Y một số tiền sung công quỹ Nhà nước.

Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự :

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước tổng số tiền 2.250.000 đồng do liên quan đến việc phạm tội gồm: 1.000.000 đồng của Nguyễn Thị Thanh T, của Nguyễn Thị Như Y 1.000.000 đồng, của Nguyễn Phan L 550.000 đồng thu lợi bất chính từ việc bán dâm và chứa mại dâm .

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động IPHONE Plus của bị cáo Nguyễn Thị Như Y; 01 điện thoại di động SAMSUNG của Phạm Văn T1 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu KECHAODA của Nguyễn Phan L sử dụng vào mục đích phạm tội.

- Tịch thu tiêu hủy 02 bao cao su, 02 vỏ bao cao su đã qua sử dụng;

- Truy thu sung công quỹ Nhà nước số tiền thu lợi bất chính từ việc chứa mại dâm 18.000.000 đồng của Nguyễn Viết T2, 9.000.000 đồng của Nguyễn Phan L và 13.000.000 đồng của Phạm Văn T1 .

Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Đối với quán cà phê T và tiệm cắt tóc nam U thuộc quyền sở hữu của ông Phạm Đắc C, ông C cho bị cáo Phạm Văn T1 thuê để bán cà phê; Còn tiệm cắt tóc nam B thuộc quyền sở hữu của chị Võ Thị Thủy T3, năm 2007 chi T3 mua lại của ông Hoàng Văn T7; Do không có nhu cầu sử dụng nên chị T3 cho bà Trần Thị H (là mẹ ruột của chị T3) quản lý sử dụng, sau đó bà H lần lượt cho người tên M, N, T (đều không rõ lai lịch) thuê để mở tiệm cắt tóc; việc các bị cáo sử dụng các địa điểm trên để chứa mại dâm thì ông C, bà H và chị T3 đều không biết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Trong khoảng thời gian từ 18 giờ 30 phút đến 19 giờ 45 phút ngày 03/01/2019, tại quán cà phê T và hai tiệm cắt tóc U vào B, địa chỉ đường N, phường T, Thành phố B, Phạm Văn T1, Nguyễn Viết T2, Nguyễn Phan L và Nguyễn Thị Như Y đã có hành vi sử dụng địa điểm do mình quản lý để chứa gái bán dâm Nguyễn Thị Thanh T và Nguyễn Thị Như Y bán dâm cho Hoàng Minh T4, Nguyễn Đức T5, Lê Viết H và Phạm Mạnh T6 thì bị bắt quả tang. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố đối với các bị cáo Phạm Văn T1, Nguyễn Viết T2, Nguyễn Phan L và Nguyễn Thị Như Y về tội “Chứa mại dâm” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 327 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Như vậy, đã có đủ căn cứ pháp lý để kết luận: Các bị cáo Phạm Văn T1, Nguyễn Viết Tuấn, Nguyễn Phan L và Nguyễn Thị Như Y phạm tội: “Chứa mại dâm” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 327 Bộ luật hình sự.

Điều 327 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào chứa mại dâm, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các T1 hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm:

a) ....

c) Phạm tội 02 lần trở lên”.

[2] Các bị cáo đều là những công dân có đủ khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của bản thân trong cuốc sống, buộc các bị cáo phải biết rằng việc chứa mại dâm là vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, nhưng chỉ vì mục đích tư lợi cá nhân nên các bị cáo đã cố ý cùng thực hiện hành vi phạm tội, đã tạo điều kiện để cho các gái bán dâm và người mua dâm thực hiện hành vi mại dâm tại quán cà phê và tiệm cắt tóc do mình quản lý; Do đó đối với các bị cáo cần phải xử lý nghiêm minh, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài nhất định, nhằm phát huy được tác dụng cải tạo, giáo dục các bị cáo và góp phần răn đe, phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[3] Trong vụ án này có nhiều bị cáo tham gia, vai trò và mức độ phạm tội của các bị cáo có khác nhau nên cần phân hóa để áp dụng mức hình phạt cho phù hợp.

Đối với bị cáo Phạm Văn T1 khi bị cáo Nguyễn Viết T2 rủ làm chung quán cà phê và hai tiệm cắt tóc mục đích chứa mại dâm thu lợi bất chính thì bị cáo T1 đã đồng ý ngay, T1 là người quản lý hoạt động bán cà phê và thu tiền của người bán dâm, T1 còn là người rủ và phân công bị cáo Nguyễn Phan L và bị cáo Nguyễn Thị Như Y quản lý, thu tiền trong ngày từ người bán dâm sau đó đưa lại cho T1 để cuối ngày đưa lại một phần cho bị cáo T2. Bản thân bị cáo T1, ngày 23/7/2007 đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 (một) năm tù về tội Trộm cắt tài sản, bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục phạm tội; Do đó bị cáo T1 phải chịu mức hình phạt cao nhất so với các bị cáo còn lại là phù hợp.

Đối với bị cáo Nguyễn Viết T2 là người sang lại quán cà phê và hai tiệm cắt tóc từ Lê Quang Hải mục đích chứa mại dâm thu lợi bất chính, không trực tiếp quản lý nhưng rủ bị cáo T1 để bị cáo T1 quản lý hoạt động mại dâm chia lợi hàng ngày cho T2, đồng thời bị cáo T2 còn là người gọi bị cáo Nguyễn Thị Như Y đến bán dâm nơi bị cáo T2 thuê; Do đó bị cáo T2 phải chịu mức hình phạt thấp hơn bị cáo T1 nhưng cao hơn bị cáo L và bị cáo Y là phù hợp.

Đối với bị cáo Nguyễn Phan L, khi bị cáo T1 thuê cũng đã đồng ý và cùng với bị cáo Nguyễn Thị Như Y trực tiếp quản lý thu tiền trong ngày từ người bán dâm cuối ngày đưa lại cho T1, ngoài ra bị cáo Y còn rủ Nguyễn Thị Thanh T đến bán dâm cùng với Y; Hội đồng xét xử xét thấy mức hình phạt của bị cáo L và bị cáo Y bằng nhau là phù hợp.

Đối với số tiền thu lợi bất chính từ việc bán dâm của Nguyễn Thị Như Y, Y khai nhận đã tiêu xài cá nhân hết và không xác định được bao nhiêu, nên cần áp dụng hình phạt bổ sung phạt bị cáo Y 10.000.000 đồng sung công quỹ Nhà nước là phù hợp.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội các bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình; Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên áp dụng để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Riêng bị cáo Nguyễn Viết T2 có cha đẻ là ông Nguyễn Viết T có thành tích xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ biên giới 02 năm 1979 – 1980 đã được sư đoàn 320 tặng bằng khen, Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ 02 năm thực hiện cuộc vận động 1979 – 1980 được Trung đoàn 64 tặng bằng khen và có thành tích xuất sắc trong hoạt động HĐND năm 2002 được Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk tặng bằng khen, ngoài ra ông T còn được tặng nhiều giấy khen khác; Đây được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự cần áp dụng khi lượng hình đối với bị cáo Nguyễn Viết T2, mặt khác gia đình bị cáo T2 cũng có phần khó khăn, hiện tại vợ bị cáo là Nguyễn Thị H đang mang thai và phải nuôi 02 con nhỏ nên Hội đồng xét xử cũng cần xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.

[4] Đối với hành vi bán dâm của Nguyễn Thị Thanh T và bị cáo Nguyễn Thị Như Y, hành vi mua dâm của Hoàng Minh T4, Nguyễn Đức T5, Lê Viết H và Phạm Mạnh T6, Công an thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính hình thức Phạt tiền là phù hợp.

Đối tượng tên T (chưa rõ nhân thân lai lịch), Lê Quang H là người mà bị cáo T2 khai trước đó đã chứa mại dâm rồi sang lại quán cà phê T và 02 tiệm cắt tóc U và B cho bị cáo T2; người bán dâm tên N, T, V và M (chưa rõ nhân thân lai lịch), Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột chưa làm việc được với những người này nên tách ra khỏi vụ án, để điều tra xử lý theo quy định là phù hợp.

Đối với quán cà phê T và tiệm cắt tóc nam U thuộc quyền sở hữu của ông Phạm Đắc C. Vào ngày 29 tháng 8 năm 2018, ông C cho T1 thuê để bán cà phê. Còn tiệm cắt tóc nam B thuộc quyền sở hữu của chị Võ Thị Thủy T3. Vào năm 2007, chị T3 mua lại của ông Hoàng Văn T7. Do không có nhu cầu sử dụng nên chị T3 cho bà Trần Thị H (là mẹ ruột của chị T3) quản lý, sử dụng. Sau đó, bà H lần lượt cho người tên M, N, và T (đều không rõ lai lịch) thuê để mở tiệm cắt tóc. Việc các bị cáo sử dụng những địa điểm trên để chứa mại dâm thì ông C, bà H và chị T3 không biết, không liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột không đề cập xử lý đối với ông C, bà H, chị T3 và không kê biên tài sản là phù hợp.

[5] Về vật chứng: Đối với số tiền tịch thu 2.550.000 đồng gồm: 1.000.000 đồng của Nguyễn Thị Thanh T, của Nguyễn Thị Như Y 1.000.000 đồng, của Nguyễn Phan L 550.000 đồng đều là tiền thu lợi bất chính từ việc bán dâm và chứa mại dâm nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động IPHONE Plus của bị cáo Nguyễn Thị Như Y; 01 điện thoại di động SAMSUNG của Phạm Văn T1 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu KECHAODA của Nguyễn Phan L đều sử dụng vào mục đích phạm tội nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Tịch thu tiêu hủy 02 bao cao su, 02 vỏ bao cao su đã qua sử dụng là tang vật của vụ án;

Truy thu sung công quỹ Nhà nước số tiền thu lợi bất chính từ việc chứa mại dâm 18.000.000 đồng của Nguyễn Viết T2, 9.000.000 đồng của Nguyễn Phan L và 13.000.000 đồng của Phạm Văn T1.

[6] Xét quá trình điều tra, truy tố Điều tra viên đã thi hành các quyết định tố tụng, tiến hành truy tìm, thu thập vật chứng, khám nghiệm hiện trường cũng như lấy lời khai của bị cáo và các đương sự khác liên quan trong vụ án là đảm bảo đúng theo trình tự quy định của pháp luật. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử kiểm sát viên đã thực hiện việc kiểm sát hoạt động tố tụng đúng theo quy định của pháp luật nên bị cáo không có ý kiến gì hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 327 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T1, Nguyễn Viết T2, Nguyễn Phan L và Nguyễn Thị Như Y phạm tội: “Chứa mại dâm”

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 327; điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự.

Xử phạt Bị cáo Phạm Văn T1 06 (sáu) năm tù; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 04 tháng 01 năm 2019.

Xử phạt Bị cáo Nguyễn Phan L 05 (năm) năm tù; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 04 tháng 01 năm 2019.

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 327; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt Bị cáo Nguyễn Viết T2 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 25 tháng 4 năm 2019.

Căn cứ điểm c khoản 2, khoản 5 Điều 327; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt Bị cáo Nguyễn Thị Như Y 05 (năm) năm tù; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 04 tháng 01 năm 2019.

Phạt bị cáo Nguyễn Thị Như Y 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) đồng sung công quỹ Nhà nước.

Về vật chứng: Căn cứ Điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 2.550.000 đồng (hai triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng).

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động IPHONE Plus, màu hồng của bị cáo Nguyễn Thị Như Y; 01 điện thoại di động SAMSUNG, màu xám của Phạm Văn T1 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu KECHAODA, màu xanh đen của Nguyễn Phan L.

- Tịch thu tiêu hủy 02 bao cao su, 02 vỏ bao cao su đã qua sử dụng.

(Vật chứng có đặc điểm, số lượng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/5/2019 giữa Công an thành phố Buôn Ma Thuột và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Buôn Ma Thuột)

- Truy thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 18.000.000 đồng (mười tám triệu đồng) của Nguyễn Viết T2, 9.000.000 đồng (chín triệu đồng) của Nguyễn Phan L và 13.000.000 đồng (mười ba triệu đồng) của Phạm Văn T1.

Về án phí: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Phạm Văn T1, Nguyễn Viết T2, Nguyễn Phan L và Nguyễn Thị Như Y, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

369
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 161/2019/HSST ngày 26/06/2019 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:161/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về