Bản án 161/2019/HS-ST ngày 02/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN Đ - THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 161/2019/HS-ST NGÀY 02/07/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, hồi 09 giờ 30 phút ngày 02 tháng 7 năm 2019 tại Toà án nhân dân quận Đ xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 166/2019/TLST- HS ngày 03 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 179/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 6 năm 2019 đối với các bị cáo:

PHÙNG NGỌC S (P), sinh ngày 19/10/1985; nơi sinh H; HKTT: số 28 Lô G, tổ 55, phường Hoàng Văn T, quận H, thành phố H; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phùng Ngọc T và bà Trần Thị Mai P; tiền án: không, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 02/7/2013, Công an phường P, quận H xử phạt hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy; Danh chỉ bản số 104 lập ngày 27/12/2018 tại Công an quận Đ, thành phố H; bị bắt ngày 26/12/2018; Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố H; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

LÊ TUẤN A, sinh ngày 19/6/1989; nơi sinh: Thanh Hóa; HKTT và chỗ ở: số 89 khu phố 7, phường Đông S, thị xã Bỉm S, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Bá H và bà Nguyễn Thị H; tiền án: không, tiền sự: không; Danh chỉ bản số 105 lập ngày 27/12/2018 tại Công an quận Đ, thành phố H; bị bắt ngày 26/12/2018; Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố H; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

RƯKOVA ANNA S (tên gọi khác: Hà Việt N); sinh ngày 27/4/1991; nơi sinh: Thành phố I, Liên Bang Nga; HKTT và chỗ ở: số 12 ngõ A10 Tập thể đại học H, phường T, quận N, thành phố H; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá 12/12; dân tộc: N; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Rưkov Sergei N và bà Hà Huyền T; tiền án: không, tiền sự: không; Danh chỉ bản số 103 lập ngày 27/12/2018 tại Công an quận Đ, thành phố H; bị bắt ngày 26/12/2018; Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố H; Bị cáo vắng mặt tại phiên tòa (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: chị Nguyễn Thị Thanh T; sinh năm 1994; Địa chỉ: Tổ 31, phường Đạ, quận H, thành phố H (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13h45’ ngày 26 tháng 12 năm 2018, tổ công tác phường L tiến hành kiểm tra hành chính phòng 404 tầng 4 nhà nghỉ H, số 66 ngõ 100 Nguyễn Chí T, Phường L, quận Đ, thành phố H. Tại thời điểm kiểm tra, trong phòng có Lê Tuấn A và Hà Việt N. Khi bị kiểm tra, Lê Tuấn A giao nộp 01 phong bì bên trong có 02 túi nilon kích thước khoảng 2x3 cm đều đựng tinh thể màu trắng. Ngoài ma túy, cơ quan công an còn tạm giữ của Tuấn A 01 điện thoại ASUS màu đen bị vỡ màn hình và 01 điện thoại Huawei màu vàng, bên trong có sim số 0965696565; tạm giữ của Hà Việt N 01 xe máy YAMAHA màu vàng, BKS: 29H1-069.47 và số tiền 1.300.000 đồng.

Theo kết luận giám định số 25/KLGĐ-PC09 ngày 03/01/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP H kết luận:

- Tinh thể màu trắng trong 02 túi nilon đều là ma túy loại methamphetamine, tổng khối lượng 1,390 gam Đấu tranh tại chỗ, Lê Tuấn A cùng với N khai số ma túy cơ quan công an tạm giữ là của Tuấn A cùng với N đi đến mua của Phùng Ngọc S tại quán Karaoke Lương Sử, số 140 Nguyễn Chí Thanh, Phường Láng Thượng, Đ, H để mang đi bán cho khách.

Cơ quan công an tiến hành dẫn giải Hà Việt N đến địa điểm N mua ma túy và bắt giữ được Phùng Ngọc S tại địa chỉ trên. Cơ quan công an đã tạm giữ của S 01 hộp sắt bên trong có chứa ma túy. Theo kết luận giám định số 90/KLGĐ-PC09 ngày 03/01/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP H kết luận số ma túy của S gồm:

- Chất bột màu trắng bên trong 02 túi nilon đều là ma túy loại Ketamine, tổng khối lượng 2,965 gam;

- 66 viên nén hình tròn màu hồng bên trong 01 túi nilon đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 6,708 gam;

- Tinh thể màu trắng bên trong 02 túi nilone đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 6,817 gam;

- 02 viên nén hình tròn màu nâu đều có ma túy loại Delta-9- tetrahydrocanabinol, tổng khối lượng 0,763 gam;

- 04 viên nén hình tròn màu xanh đều là ma túy loại MDMA, tổng khối lượng 1,399 gam;

- 01 cân điện tử có dính ma túy loại Methamphetamine.

Ngoài ra, cơ quan công an còn tạm giữ của S 01 điện thoại di động Nokia màu trắng, bên trong có sim 094473333 và số tiền 3.000.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra Lê Tuấn A khai nhận: vào khoảng 13h ngày 26/12/2018, Tuấn A đang cùng N đi chơi thì có một người đàn ông tự giới thiệu tên là S sử dụng số điện thoại 0327744919 gọi điện cho Tuấn A nhờ mua hộ 1,5 gam ma túy đá. Tuấn A báo giá là khoảng 1.500.000 đồng và bảo S đưa tiền trước. S đồng ý và bảo Tuấn A qua chân cầu vượt T để lấy tiền. Tuấn A điều khiển xe chở N đến chân cầu vượt T rồi đi bộ sang gặp S. S đưa trước cho Tuấn A 600.000 đồng và hẹn Tuấn A khi lấy được ma túy thì mang lên nhà nghỉ H thì S sẽ trả nốt tiền. Tuấn A quay lại chỗ N đang chờ và nhờ N hỏi mua hộ 1,5 gam ma túy đá. N gọi điện thoại cho ai đó và bảo Tuấn A chở đến quán karaoke L số 140 Nguyễn Chí T để N lấy ma túy. Khi đang ngồi chờ N thì S gọi lại cho Tuấn A bảo mang ma túy đến cho S. Tuấn A bảo S ra quán nước số 142 Nguyễn Chí T để đưa tiền cho Tuấn A. Tại đây S đưa cho Tuấn A 750.000 đồng và bảo Tuấn A lấy được ma túy thì mang đến nhà nghỉ H cho S. Sau đó, Tuấn A trả tiền nước hết 50.000 đồng và đi ra đón N. N đưa cho Tuấn A một phong bì bên trong đựng ma túy. Tuấn A bảo N tiền mua ma túy để trong túi quần sau bên trái và cho N toàn bộ số tiền 1.300.000 đồng là tiền bán ma túy. Sau đó, Tuấn A chở N cùng đi lên nhà nghỉ H để giao ma túy. Khi lên phòng 404 nhà nghỉ H, Tuấn A để phong bì có chứa ma túy xuống dưới gối trong phòng. Ny sau đó, lực lượng công an vào kiểm tra. Tuấn A lấy ma túy ra giao nộp như trên.

Đối với đối tượng tên S là người mua ma túy, Tuấn A khai không biết S tên đầy đủ là gì, nhà S ở đâu, chỉ biết S sử dụng số điện thoại 0327744919 liên lạc với Tuấn A để mua ma túy. Qua xác minh tại Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Q được cung cấp chủ đăng kí số thuê bao trên là Nguyễn Ngọc S (Sinh năm: 1989, HKTT: Tổ 17B, Phường Láng Thượng, quận Đ, thành phố H). Cơ quan điều tra tiến hành cho Tuấn A nhận dạng ảnh của Nguyễn Ngọc S để xác định người tên S đã nhờ Tuấn A mua ma túy, tuy nhiên, Tuấn A không nhận ra ai là S trong bản nhận dạng. Cơ quan điều tra đã tiến hành triệu tập ghi lời khai của Nguyễn Ngọc S nhưng S không có mặt tại nơi cơ trú. Cơ quan điều tra tiến hành tách rút phần tài liệu liên quan đến chủ sở hữu số thuê bao 0327744919 để tiếp tục điều tra làm rõ.

Tại cơ quan điều tra, Hà Việt N khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của Lê Tuấn A. Sau khi Lê Tuấn A nhờ N mua ma túy thì N gọi điện thoại cho Phùng Ngọc S để hỏi mua ma túy. Phùng Ngọc S bảo N đi lên tầng 4 quán karaoke L số 140 Nguyễn Chí T để lấy ma túy, giá bán là 900.000 đồng/gam. Tại đây S chia ma túy vào 02 túi nilon nhỏ, cho vào trong phong bì và đưa cho N, S bảo N cứ cầm rồi quay lại đưa tiền cho S sau. N cầm ma túy đưa cho Tuấn A. Tuấn A lấy tiền đưa cho N rồi cùng lên phòng 404 nhà nghỉ H thì bị cơ qua công an bắt giữ. N khai đây là lần đầu tiên mua ma túy của Phùng Ngọc S mang về cho Tuấn A.

Tại cơ quan điều tra, Phùng Ngọc S khai nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy phù hợp với lời khai của Hà Việt N và Lê Tuấn A. Số ma túy S bán cho Hà Việt N lấy từ số ma túy mà công an đã thu giữ trong hộp sắt của S. Toàn bộ số ma túy trên S mua của một người phụ nữ tên là H tại khu vực phố Q, thành phố H vào ngày 30/11/2018 với giá 20.000.000 đồng để sử dụng và bán lại cho khách. S mới bán ma túy cho N một lần. Ngoài ra S chưa bán Ma túy được cho ai khác. S không biết Hằng tên đầy đủ là gì, nhà ở đâu, do đó, cơ quan điều tra không xác minh làm rõ để xử lí được.

Đối với toàn bộ số ma túy, 01 cân điện tử và 03 chiếc điện thoại các loại tạm giữ của S và Tuấn A, Cơ quan điều tra đã chuyển Chi cục thi hành án dân sự quận Đ để xử lí theo quy định của pháp luật.

Đối với số tiền 1.300.000 đồng tạn giữ của Hà Việt N (N khai là tiền Tuấn A trả tiền mua ma túy) và số tiền 3.000.000 đồng tạm giữ của Phùng Ngọc S (S khai là tiền chi tiếu cá Nhân của S), Cơ quan điều tra đã chuyển cơ quan có thẩm quyền để giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 163/CT-VKS ngày 29/5/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Đ truy tố Phùng Ngọc S về tội “Mua bán trái phép chất ma túy ” theo điểm p khoản 2 Điều 251- Bộ luật hình sự. Truy tố Lê Tuấn A và Hà Việt N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy ” theo khoản 1 Điều 251- Bộ luật hình sự Tại phiên toà hôm nay, các bị cáo công nhận nội dung bản cáo trạng nêu là đúng, các bị cáo nhận thức được hành vi của mình là phạm tội và ăn năn hối cải. Các bị cáo xin được hưởng mức án nhẹ nhất. Bị cáo N có đơn đề nghị xin được xét xử vắng mặt vì lý do sức khỏe, bị cáo đã khai đầy đủ tại cơ quan điều tra, bị cáo vẫn giữ nguyên các lời khai đó và xin được hưởng mức án nhẹ nhất.

Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố sau khi phân tích đánh giá tính chất mức độ phạm tội của các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ: điểm p khoản 2 điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 - Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phùng Ngọc S từ 11 năm đến 11 năm 06 tháng tù. Căn cứ: khoản 1 điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 - Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Tuấn A từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù. Căn cứ: khoản 1 điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 - Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Hà Việt N từ 03 ba năm đến 03 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo. Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ, 01 cân điện tử. Tịch thu sung quỹ 02 điện thoại di động và số tiền 1.300.000 đồng thu giữ của N; Trả số tiền 3.000.000 đồng thu giữ của S. Trả lại Tuấn A 01 điện thoại di động không liên quan đến vụ án. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo xuất trình các tài liệu, chứng cứ phù hợp quy định pháp luật, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Bị cáo Rưkôva Anna S (tên gọi khác: Hà Việt N) có đơn đề nghị xin được xét xử vắng mặt vì lý do sức khỏe, bị cáo đã khai đầy đủ tại cơ quan điều tra, bị cáo vẫn giữ nguyên các lời khai đó và xin được hưởng mức án nhẹ nhất nên chấp nhận, phù hợp điểm c khoản 2 điều 290 Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng:

Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với bản kiểm điểm, biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của nhân chứng, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 13h45 ngày 26/12/2018, tại phòng 404 tầng 4 nhà nghỉ H, số 66 ngõ 100 Nguyễn Chí T, Phường L, quận Đ, thành phố H, Lê Tuấn A và Hà Việt N có hành vi tàng trữ trái phép 1,390 gam Methamphetamine (mua của Phùng Ngọc S) với mục đích để bán kiếm lời thì bị phát hiện bắt giữ quả tang cùng tang vật.

Quá trình bắt giữ Phùng Ngọc S tại phòng ngủ tầng 4, số 140 Nguyễn Chí T, phường L, quận Đ, thành phố H, Phùng Ngọc S có hành vi tàng trữ trái phép: 2,965 gam ketamine; 13,525 gam metamphetamine; 1,399 gam MDMA; 0,763 gam Delta-9-tetrahydrocanabinol. S khai đã mua số ma túy đó với mục đích sử dụng và để bán. Nguồn gốc số ma túy S đã bán cho N ở trên là S cũng lấy từ số ma túy mà cơ quan công an đã thu giữ trên. Do vậy, Phùng Ngọc S phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tổng khối lượng các chất ma túy methamphetamine, MDMA là 16,3144 gam và tổng khối lượng các chất ma túy ở thể rắn ketamine, Delta-9-tetrahydrocanabinol là 3,728 gam.

Hành vi nêu trên của bị cáo Phùng Ngọc S đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy ”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Hành vi nêu trên của bị cáo Lê Tuấn A và Hà Việt N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân quận Đ, thành phố H truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý chất gây nghiện của nhà nước, tiếp tay cho các loại tội phạm về ma túy khác, gây mất trật tự trị an địa phương. Vì vậy cần phải có hình phạt nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục các bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.

[3] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Đối với bị cáo Phùng Ngọc S:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo nhân thân xấu có 01 tiền sự đã hết thời hiệu. Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, lần đầu bị đưa ra xét xử là các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Đối với bị cáo Lê Tuấn A: Tình tiết tăng nặng: không có.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, lần đầu bị đưa ra xét xử là các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Đối với bị cáo Hà Việt N: Tình tiết tăng nặng: không có.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, lần đầu bị đưa ra xét xử là các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Đây là vụ án có đồng phạm thuộc loại giản đơn. Mỗi bị cáo phải chịu mức hình phạt tương ứng với hành vi phạm tội của mình.

[4] Xét các bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Về những vấn đề khác: Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333- Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Hội đồng xét xử xét:

Về xử lý vật chứng:

Đối với số ma túy thu giữ. Đây là vật cấm tàng trữ, mua bán nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 1.300.000 đồng thu giữ của bị cáo N, đây là số tiền liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên tịch thu sung ngân sách Nhà Nước.

Đối với số tiền 3.000.000 đồng thu giữ của S, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại bị cáo.

Đối với 01 điện thoại ASUS màu đen bị vỡ màn hình không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo Tuấn A; 01 điện thoại Huawei màu vàng, 01 điện thoại di động Nokia màu trắng các bị cáo sử dụng làm phương tiện liên lạc để mua, bán ma túy nên tịch thu sung ngân sách Nhà Nước.

Đối với chiếc xe máy YAMAHA Luvias màu vàng, biển kiểm soát 29H1-069.47 tạm giữ của N, qua xác minh xác định chủ sở hữu chiếc xe máy là chị Nguyễn Thị Thạch T (Sinh năm: 1994, HKTT: Tổ 31, phường Đ, quận H,thành phố H) cho N mượn sử dụng nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe máy trên cho chị T là đúng quy định pháp luật.

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Từ lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Phùng Ngọc S, Lê Tuấn A, Rưkova Anna S (tên gọi khác: Hà Việt N) phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy ”.

Căn cứ: điểm p khoản 2 điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Phùng Ngọc S 11 (mười một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/12/2018.

Căn cứ: khoản 1 điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Lê Tuấn A 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/12/2018.

Căn cứ: khoản 1 điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Rưkova Anna S (tên gọi khác: Hà Việt N) 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/12/2018.

Căn cứ: Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333, điểm c khoản 2 điều 290 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tịch thu tiêu hủy 01(một) phong bì bên ngoài có chữ ký của đối tượng Lê Tuấn A, Hà Việt N và giám định viên bên trong có 02 túi nilong đựng 1,390 gam Methamphetamine; 01 phong bị niêm phong bên ngoài có chữ ký của đối tượng Phùng Ngọc S và giám định viên bên trong có 01 túi nilong đựng 66 viên nén hình tròn màu hồng, có logo WY là ma túy Methamphetamine có khối lượng 6,708 gam; 01 túi nilong đựng 04 viên nén hình tròn màu xanh, có logo LV là ma túy MDMA có khối lượng 1,399 gam; 02 túi nilong đựng tinh thể màu trắng là Methamphetamine có khối lượng 6,817 gam; 01 túi nilong đựng 02 viên nén hình tròn màu nâu có ma túy loại Delta-9- tetrahydrocanabinol có tổng khối lượng 0,763 gam; 01 bì niêm phong bên ngoài có chữ ký của đối tượng Phùng Ngọc S và giám định viên bên trong có 01 cân điện tử có dính ma túy loại Methamphetamine.

Tịch thu sung ngân sách Nhà Nước 01 điện thoại Huawei màu vàng, bị vỡ màn hình bên trong có sim số 0965696565; 01 điện thoại di động Nokia màu trắng, bên trong có sim số 0944573333.

Hiện vật các chứng trên đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Đ, H (Biên bản giao nhận vật chứng số: 222 ngày 02/7/2019).

Tịch thu sung ngân sách Nhà Nước số tiền 1.300.000 đồng, hiện đang lưu giữ tại Kho bạc Nhà Nước Đ theo tài khoản 3949 của Chi cục thi hành án dân sự quận Đ, Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 29/5/2019.

Trả bị cáo Lê Tuấn A 01 điện thoại ASUS màu đen bị vỡ màn hình đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự quận Đ, H (Biên bản giao nhận vật chứng số: 222 ngày 02/7/2019).

Trả Phùng Ngọc S số tiền 3.000.000 đồng, hiện đang lưu giữ tại Kho bạc Nhà Nước Đ theo tài khoản 3949 của Chi cục thi hành án dân sự quận Đ, Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 29/5/2019.

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Phùng Ngọc S và bị cáo Lê Tuấn A được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị cáo Rưkova Anna Sergeevna (tên gọi khác: Hà Việt N) được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 161/2019/HS-ST ngày 02/07/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:161/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Đống Đa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về