Bản án 161/2019/HSPT ngày 12/06/2019 về tội mua bán trái phép vật liệu nổ

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 161/2019/HSPT NGÀY 12/06/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP VẬT LIỆU NỔ

Vào ngày 12 tháng 6 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 184/2019/TLPT-HS ngày 08 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Thành P về tội “Mua bán trái phép vật liệu nổ”. Do có kháng nghị đối với bản án hình sự sơ thẩm số 09/2019/HS-ST ngày 15/03/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 499/2019/QĐXXPT-HS ngày 30 tháng 5 năm 2019.

* Bị cáo có kháng nghị:

Nguyễn Thành P, sinh năm 1981 tại Quảng Trị; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn K1, xã T4, huyện G1, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; bố: Không có; mẹ: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1956; Vợ: Trần Thị H, sinh năm 1984 và có 03 con: Lớn nhất 06 tuổi, nhỏ nhất 01 tuổi; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/8/2018 đến ngày 18/12/2018 thì được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” cho đến nay.

* Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thành P: Luật sư Lê Văn H1, Công ty luật V; vắng mặt, Có luận cứ bào chữa.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Chị Trần Thị H, sinh năm 1984 (Vợ bị cáo P); trú tại: Thôn K1, xã T4, huyện G1, tỉnh Quảng Trị, có mặt.

- Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1956 (Mẹ bị cáo P); trú tại: Thôn T2, xã G, huyện G1, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 22/8/2018, Nguyễn Thành P nhận điện thoại của một người đàn ông tên Hùng (không rõ lai lịch, địa chỉ) ở xã P1, huyện P2, tỉnh Thừa Thiên Huế nói cần bán 80kg thuốc nổ với giá 150.000 đồng/kg. Nghe vậy, P đồng ý và hẹn chiều sẽ vào mua. Khoảng 13 giờ cùng ngày, P đi vào thành phố Đ rồi điện thoại cho Hoàng Quốc K là lái xe ô tô Taxi hãng S biển kiểm soát 74A-069.81 đến quán cà phê M ở đường L, thành phố Đ đón P đi vào xã P1, huyện P2, tỉnh Thừa Thiên Huế gặp Hùng và 01 người đàn ông điều khiển xe mô tô chở 03 bao thuốc nổ đến, P bảo K mở cốp xe và bốc 03 bao thuốc nổ rồi trả cho Hùng 12.000.000 đồng. Sau đó, K điều khiển xe ô tô chở P chạy ra nhà anh Nguyễn Quang T1, ở thôn T2, xã G, huyện G1, tỉnh Quảng Trị. Tại đây, P mở cốp xe bốc 03 bao thuốc nổ xuống sân và trả cho K 1.200.000 đồng, K điều khiển xe ô tô về, còn P bốc 03 bao thuốc nổ đưa ra đồi cát phía trước nhà anh T1 cất dấu.

Trưa ngày 26/8/2018, P nhận điện thoại của một người đàn ông tên Hoàng (không rõ lai lịch, địa chỉ) ở thị trấn C, huyện V, tỉnh Quảng Trị hỏi mua 40kg thuốc nổ, với giá 200.000 đồng/kg. Nghe vậy, P đồng ý và hẹn Hoàng đến khu vục cổng làng N, xã G, huyện G1 để lấy thuốc nổ. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, P điều khiển xe mô tô đến cho dấu thuốc nổ bốc 02 bao thuốc nổ bỏ lên xe mô tô rồi điều khiển đến khu vực cổng làng N, xã G, huyện G1 bán cho Hoàng 40kg thuốc nổ với giá 8.000.000 đồng.

Vào ngày 28/8/2018, P nhận điện thoại của một người đàn ông tên Hùng ở xã P1, huyện P2, tỉnh Thừa Thiên Huế đặt vấn đề nói cần bán 40kg thuốc nổ với giá 150.000 đồng/kg. Nghe xong, P đồng ý và hẹn ngày hôm sau sẽ vào mua. Khoảng 10 giờ ngày 29/8/2018, P điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 74A- 073.37 chạy vào khu vực ngã tư L2 và đường L3 thành phố Đ đón một người đàn ông tên Trọng (không rõ lai lịch, địa chỉ) đi vào xã P1, huyện P2, tỉnh Thừa Thiên Huế gặp Hùng mua 40kg thuốc nổ giá 6.000.000 đồng, P đã trả cho Hùng 5.000.000 đồng, còn nợ lại 1.000.000 đồng. Sau đó, P điều khiển xe ô tô ra thành phố Đ và điện thoại cho Lê Phước T3 là lái xe ô tô Taxi hãng S biển kiểm soát 74A-069.81 đến đường Trần Hưng Đạo. Tại đây, P bảo T3 mở cốp xe Taxi để bốc 02 bao thuốc nổ rồi bảo T3 điều khiển xe ô tô chạy đến cổng làng thôn L1, xã G2, huyện G1 đứng đợi, còn anh P điều khiển xe ô tô về nhà mẹ mình là bà Nguyễn Thị T (mẹ của P), sau đó lấy xe mô tô đến cho dấu thuốc trước đó lấy 01 bao thuốc nổ chạy ra cổng làng thôn L1 gặp T3 và bốc thuốc nổ lên xe và điện thoại nhờ anh Nguyễn Quang T1 ra cổng làng thôn L1 lấy xe mô tô về. P bảo T3 điều khiển xe ô tô ra thành phố Đ1, tỉnh Quảng Bình để bán số thuốc nổ này cho một người phụ nữ tên Xanh (không rõ lai lịch, địa chỉ) với giá 200.000 đồng/kg. Khi T3 điều khiển xe ô tô đến địa phận xã VI, huyện V, tỉnh Quảng Trị thì bị lực lượng Công an tỉnh Quảng Trị phát hiện bắt quả tang thu giữ cùng tang vật.

Quá trình điều tra thu giữ: 03 bao gai màu da cam có trọng lượng 81kg; 05 điện thoại di động; 01 xe ô tô biển kiểm soát 74A-068.81; 01 xe ô tô biển kiểm soát 74A-073.37; 01 giấy chứng nhận kiểm định; 01 giấy chứng nhận thế chấp; 01 xe mô tô biển kiểm soát 74B1-122.38; 02 đơn xin bảo lãnh; 01 đơn xin nhận lại tài sản; 01 bản sao huy chương kháng chiến; 02 hợp đồng lao động; 02 quyết định tuyển dụng; 02 bản cam kết; 01 bản sao chứng thực chứng nhận đăng ký xe ô tô 74A-069.81; 01 giấy biên nhận thế chấp; 01 tập tài liệu gồm 13 tờ ghi nhận chi tiết chốt ca và hành trình (có đặc điểm như biên bản thu giữ).

Tại bản kết luận giám định số 542/KLGĐ ngày 05/9/2018 của Phòng PC09-Công an tỉnh Quảng Trị kết luận: Chất rắn cục màu xanh được niêm phong trong 03 phong bì ký hiệu B1, B2, B3 gửi đến giám định có thành phần chính là thuốc nổ Trinitroluen (thuốc nổ TNT) còn sử dụng được.

Tính năng tác dụng: Thuốc nổ Trinitroluen (thuốc nổ TNT) có sức công phá mạnh, thường được nhồi vào bom đạn phục vụ cho mục đích quân sự, tăng cường độ phá đất đá...

Xét thấy các tài sản không liên quan đến vụ án nên đã trả lại cho chủ sở hữu: 02 điện thoại di động; 01 xe ô tô biển kiểm soát 74A-068.81(có đặc điểm như bản thu giữ).

Chuyển theo hồ sơ vụ án: 02 đơn xin bảo lãnh; 01 đơn xin nhận lại tài sản; 01 bản sao huy chương kháng chiến; 02 hợp đồng lao động; 02 quyết định tuyển dụng; 02 bản cam kết; 01 bản sao chứng thực chứng nhận đăng ký xe ô tô 74A-069.81; 01 giấy biên nhận thế chấp; 01 tập tài liệu gồm 13 tờ ghi nhận chi tiết chốt ca và hành trình (có đặc điểm như biên bản thu giữ).

Chuyển toàn bộ số thuốc nổ còn lại sau giám định sang Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Trị chờ xử lý.

Chuyển 03 điện thoại di động; 01 giấy chứng nhận kiểm định; 01 giấy chứng nhận thế chấp (có đặc điểm như biên bản thu giữ) sang Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Trị chờ xử lý.

Giao cho bà Trần Thị H, Nguyễn Thị T: 01 xe ô tô biển kiểm soát 74A-073.37 và 01 xe mô tô biển kiểm soát 74B1-122.38 bảo quản, chờ xử lý.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 09/2019/HS-ST ngày 15/3/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị đã quyết định:

Căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 305; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; khoản 1, khoản 2 Điều 65 Bộ Luật hình sự, xử phạt bị cáo: Nguyễn Thành P 03 (ba) năm tù về tội “Mua bán trái phép vật liệu nổ” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 (năm) năm kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Nguyễn Thành P cho Ủy ban nhân dân xã T4, huyện G1, tỉnh Quảng Trị giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 09/4/2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng có Quyết định số 14/QĐ-VC2 kháng nghị bản án sơ thẩm đề nghị xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng hủy bản án hình sự sơ thẩm để xét xử lại.

Tại phiên tòa phúc thẩm Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên tòa giữ nguyên quyết định kháng nghị đề nghị Hội đồng xét xử hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, với lý do: Hành vi của bị cáo P đã có hai lần mua thuốc nổ của người có tên Hùng tổng cộng 120 kg (lần 80kg + lần 40kg); ngoài số lượng 81 kg thuốc nổ bị thu giữ khi bắt quả tang trên đường chở đi bán cho người tên Xanh, thì vào ngày 26/8/2018 bị cáo đã bán cho người tên Hoàng 40 kg ở Làng N, xã G, huyện G1, như vậy số lượng bị cáo phải chịu trách nhiệm là 121 kg, nên bị cáo phải được xét xử theo điểm a khoản 4 Điều 305 BLHS, cấp sơ thẩm xét xử bị cáo theo điểm a khoản 3 Điều 305 BLHS là áp dụng không đúng pháp luật, về xử án treo, khoản 3 Điều 305 BLHS có khung hình phạt từ 7 năm đến 15 năm tù, bị cáo phạm tội nhiều lần, bản án sơ thẩm không áp dụng tình tiết tăng nặng “Phạm tội hai lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1, Điều 52 BLHS, và xử phạt dưới khung hình phạt cho hưởng án treo là không thỏa đáng.

Tại Luận cứ bào chữa cho bị cáo Luật sư Lê Văn H1 cho rằng: Theo lời khai của bị cáo Nguyễn Thành P thì bị cáo đã thực hiện hai lần mua bán vật liệu nổ từ ngày 22/8/2018 đến ngày 26/8/2018; tuy vậy trong quá trình điều tra không truy tìm được lai lịch, địa chỉ của Hoàng ở đâu, đồng thời không tìm được vật chứng là 40 kg thuốc nổ mà bị cáo đã khai nhận là đã bán cho Hoàng; theo quy định tại Điều 98 BLTTHS thì lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn không phù hợp với chứng cứ khác, đó là: người mua là ai? Vật chứng của vụ án bán 40 kg thuốc nổ đang ở đâu? Nên không thể cáo buộc bị cáo đã bán 40 kg thuốc nổ cho người có tên là Hoàng. Nhận thấy Bản cáo trạng số 06/CT-VKS-TA ngày 12/2/2019 của VKSND tỉnh Quảng Trị truy tố bị cáo có tang vật 81 kg, không truy tố bị cáo phạm tội 120 kg; TAND tỉnh Quảng Trị thấy việc truy tố là có căn cứ nên không trả hồ sơ để VKS truy tố lại được quy định tại khoản 3 Điều 298 BLTTHS là có căn cứ. Vật chứng của vụ án là loại phế liệu chiến tranh đã để lại dưới lòng đất đã hơn 50 năm nay, cho nên chất lượng sử dụng thấp, Bản kết luận giám định số 542 ngày 5/9/2018 Phòng TC09-CA tỉnh Quảng Trị tự kết luận vật chứng thuốc nổ TNT không tiến hành giám định chất lượng (%) còn lại của thuốc nổ là bao nhiêu để quy ra tang số phạm pháp điều này gây bất lợi cho bị cáo. Quảng Trị là chiến trường vô cùng ác liệt, Đế quốc Mỹ đã dội hàng triệu tấn bom, tàn tích sau chiến tranh ở Quảng trị vẫn chưa được giải quyết, hằng ngày người dân vẫn bị bom đạn còn sót lại trong chiến tranh đe dọa đến cuộc sống bình yên của họ; cuộc sống nghèo khổ đã làm cho người dân vẫn tiếp tục mạo hiểm bước tới và chạm mối đe dọa nguy hiểm đến tính mạng mà chiến tranh để lại; vì vậy mỗi khi lượng thuốc nổ đã được người dân tháo dỡ trong bom đạn của chiến tranh thì xuất hiện người mua, người bán, nhưng hành vi mua bán thuốc nổ đã không được pháp luật phân biệt có từ nguồn gốc nào, để từ đó có quan điểm xử lý hình sự phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh khách quan của người phạm tội. Bị cáo là người lao động nhất thời phạm tội, có vợ và ba con nhỏ, lớn 6 tuổi nhỏ 1 tuổi, nếu bắt bị cáo phải cải tạo tập trung thì các con nhỏ của bị cáo chỉ một mình người mẹ không đủ sức nuôi dưỡng, đề nghị HĐXX bác toàn bộ kháng nghị của VKS cấp cao tại Đà Nẵng, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm, xử phạt bị cáo 3 năm tù cho hưởng án treo.

Bị cáo Nguyễn Thành P thống nhất với luận cứ bào chữa của luật sư bào chữa, và trình bày thêm: Trước đây do nhầm lẫn bị cáo khai đã mua bán nhiều lần thuốc nổ là không đúng, bây giờ bị cáo xác định chỉ mua 80 kg thuốc nổ của một người tên Hùng, sau đó chở đi thì bị bắt quả tang. Bị cáo là người dân lao động vì muốn có đồng tiền lời mà đã mua thuốc nổ, bị cáo không biết rằng việc mua bán thuốc nổ là phạm pháp hình sự, mong HĐXX khoan hồng xem xét cho bị cáo về hoàn cảnh gia đình, mẹ bị cáo là người tham gia cách mạng có công với nước không có chồng thường xuyên đau ốm bị cáo phải hỗ trợ chăm sóc, bị cáo có vợ và 3 con lớn nhất 6 tuổi, nhỏ nhất 1 tuổi, bị cáo là lao động chính duy nhất trong gia đình nếu bắt bị cáo đi tù gia đình không ai nuôi con và chăm sóc cho mẹ già.

Sau khi nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án được thẩm tra chứng cứ tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa và các quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Ngày 29/8/2018, bị cáo Nguyễn Thành P đã có hành vi thuê xe Taxi vận chuyển 81kg thuốc nổ TNT ra thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình để bán thì bị phát hiện bắt quả tang, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép vật liệu nổ” theo điểm a khoản 3 Điều 305 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng pháp luật.

[2]. Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại, thấy:

[2.1] Về khung hình phạt: Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng cho rằng: “Vào các ngày 22 và 28/8/2018, bị cáo Nguyễn Thành P đã có 02 lần mua thuốc nổ của người có tên Hùng tổng cộng 120kg (lần 80 kg + lần 40 kg), ngoài số lượng 81 kg thuốc nổ bị thu giữ khi bị bắt quả tang trên đường chở đi bán cho người tên Xanh, thì vào ngày 26/8/2018 bị cáo đã bán cho người tên Hoàng 40 kg ở làng N, xã G, huyện G1. Như vậy, số lượng bị cáo phải chịu trách nhiệm là 121 kg, nên bị cáo phải được xét xử theo điểm a khoản 4 Điều 305 BLHS 2015, nhưng cấp sơ thẩm xét xử bị cáo theo điểm a khoản 3 Điều 305 BLHS là áp dụng không đúng pháp luật”. Xét thấy: Ngoài lần bị bắt phạm tội quả tang 81 kg thuốc nổ TNT bị cáo Nguyễn Thành P còn khai nhận vào ngày 22 và 28/8/2018 bị cáo Nguyễn Thành P đã mua của người tên Hùng tổng cộng 120 kg thuốc nổ TNT (lần 80 kg và lần 40 kg); ngày 26/8/2018 bị cáo bán cho người tên Hoàng 40 kg ở làng N, xã G, huyện G1. Tuy nhiên, quá trình điều tra mặc dù cơ quan điều tra đã áp dụng các biện pháp điều tra nhưng cũng không chứng minh được người có tên là Hùng đã bán thuốc nổ cho P và người có tên là Hoàng đã mua thuốc nổ của P, tang vật cũng không thu hồi được; do vậy không có cơ sở để xem xét trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Thành P đối với khối lượng 40 kg thuốc nổ mà bị cáo đã khai mua của người tên Hùng và bán cho người tên Hoàng theo quy định tại Điều 98 BLTTHS. Từ đó, Viện kiểm sát sơ thẩm đã truy tố và Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo đối với khối lượng thuốc nổ 81 kg bị bắt quả tang là có cơ sở. Do đó, căn cứ quy định tại Điều 98 BLTTHS không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng cho rằng: Bị cáo Nguyễn Thành P phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 121 kg thuốc nổ, thuộc trường hợp điểm a khoản 4 Điều 305 BLHS 2015.

[2.2] Về việc cho bị cáo được hưởng án treo: Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng cho rằng: “Khoản 3 Điều 305 có khung hình phạt 7 năm đến 15 năm tù, bị cáo phạm tội nhiều lần, bản án sơ thẩm không áp dụng tình tiết tăng nặng “Phạm tội 2 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS, áp dụng không đúng Điều 54 BLHS tuyên bị cáo 3 năm tù cho hưởng án treo là không thỏa đáng, mức án nhẹ. Xét thấy: Quá trình điều tra bị cáo khai nhận ngoài lần phạm tội quả tang với khối lượng thuốc nổ 81 kg bị cáo còn khai nhận đã mua bán nhiều lần khác; căn cứ vào lời khai của bị cáo, cơ quan điều tra đã áp dụng các biện pháp điều tra nhưng không chứng minh được người bán thuốc nổ cho bị cáo và người mua thuốc nổ của bị cáo là ai; các đối tượng người tên Hùng, người tên Hoàng và những người khác đã bán và mua thuốc nổ mà bị cáo đã khai ra cơ quan điều tra không xác minh được; cũng như tang vật thuốc nổ không thu hồi được nên không có cơ sở để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Do đó, kháng nghị cho rằng bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “Phạm tội từ hai lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015 là không có căn cứ và không được Hội đồng xét xử chấp nhận. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp áp dụng điểm a khoản 3 điều 305 BLHS có khung hình phạt từ 7 năm đến 15 năm tù, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 54 BLHS 2015 xử phạt bị cáo 3 năm tù là có nhẹ chưa tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên cũng thấy rằng, bị cáo là người dân lao động nhận thức về pháp luật còn hạn chế, quá trình tố tụng và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, khối lượng thuốc nổ TNT mà bị cáo đã mua bán bị thu giữ có nguồn gốc từ những quả bom do chiến tranh còn sót lại, được người dân thu gom bán lại với mục đích tìm kiếm lợi nhuận mà không biết rằng đã phạm tội hình sự được quy định tại Điều 305 BLHS 2015; mẹ của bị cáo là người có công với Nhà nước được tặng thưởng Huân, huy chương thường xuyên đau ốm bị cáo phải hỗ trợ chăm sóc; bị cáo cư trú tại địa phương chấp hành tốt chủ trương chính sách của của Đảng và pháp luật của Nhà nước được xã T4 xác nhận, lần đầu phạm tội, bị cáo là lao động chính trong gia đình có vợ và 3 con còn nhỏ, con lớn nhất 6 (sáu) tuổi và con nhỏ nhất 1 (một) tuổi, bị cáo là lao động trụ cột trong gia đình. Từ những căn cứ trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 BLHS để xử phạt bị cáo 3 năm tù và cho hưởng án treo thử thách 5 năm là có căn cứ. Luận cứ bào chữa của Luật sư cho bị cáo có cơ sở được chấp nhận.

Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử thấy không có cơ sở chấp nhận kháng nghị số 14/QĐ-VC2 ngày 9/4/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị hủy bản án hình sự sơ thẩm để xét xử lại, do đó giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng, về án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4]. Bị cáo Nguyễn Thành P không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và giữ nguyên bản án sơ thẩm số 09/2018/HS-ST ngày 15/3/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị.

1. Căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 305; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; khoản 1, khoản 2 Điều 65 Bộ Luật hình sự, xử phạt bị cáo: Nguyễn Thành P 03 (ba) năm tù về tội “Mua bán trái phép vật liệu nổ” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 (năm) năm kể từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Nguyễn Thành P cho Ủy ban nhân dân xã T4, huyện G1, tỉnh Quảng Trị giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

2. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm số 09/2018/HS-ST ngày 15/ 3/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị về xử lý vật chứng, về án phí hình sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo Nguyễn Thành P không phải chịu.

4. Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

494
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 161/2019/HSPT ngày 12/06/2019 về tội mua bán trái phép vật liệu nổ

Số hiệu:161/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về