TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHƠN TRẠCH, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 160/2020/HSST NGÀY 29/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 178/2020/TLST-HS ngày 01/12/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 166/2020/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch đối với bị cáo:
Võ Ngọc G, sinh ngày 19/5/2000 tại tỉnh Hậu G.
Nơi đăng ký HKTT: ấp T, xã X, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai. Chỗ ở hiện nay: ấp B, xã P, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Giới tính: Nữ; Quốc tịch: Việt Nam; Con Phan Văn Đ và bà Võ Thị Chúc M. Bị cáo có chồng là Nguyễn Minh T, sinh năm 1984 và có 01 con sinh năm 2018.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 01/8/2020. Bị cáo có mặt.
Người làm chứng: Võ Thị Hồng L, sinh năm 1989 (vắng mặt) Địa chỉ: Khu phố P, thị trấn H, huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bị cáo Võ Ngọc G bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Võ Ngọc G là đối tượng nghiện ma túy. Vào khoảng 08 giờ ngày 01/8/2020 G gọi điện thoại cho một người tên H (chưa rõ nhân thân) hỏi mua 500.000đồng ma túy đá, H đồng ý và hẹn gặp tại Khu vực Bò Sữa Long Thành thuộc xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai. 08 giờ 15 phút cùng ngày, G thuê xe ôm chở đến điểm hẹn, sau đó có 1 người thanh niên (chưa rõ nhân thân) điều khiển xe mô tô (không rõ biển số) đến giao cho G 01 gói ma túy loại Methamphetamine, G đưa cho người này 500.000đồng và cất giấu ma túy vào túi áo khoác bên phải rồi bắt xe buýt đến ngã tư H thuộc thị trấn H, huyện Nhơn Trạch. Trên đường đi G gọi điện thoại rủ bạn tên T (chưa rõ nhân thân) để cùng sử dụng ma túy và hẹn gặp tại Ngã tư H. Khoảng 09 giờ 50 phút cùng ngày G đến ngã tư H, xuống xe đứng đợi và gặp T, sau đó cả hai thuê xe taxi chở đến nhà người bạn của T tại khu phố P, thị trấn H để cùng sử dụng chung ma túy. Khi đi vào đường hẻm, G trả tiền xe taxi và cùng Tuyền đi bộ vào nhà bạn của T. Lúc này có một số đối tượng (không rõ nhân thân) đã đánh G bằng tay không và T đã bỏ đi nơi khác. G được người dân can ngăn và báo Công an thị trấn H nên các đối tượng đánh G bỏ chạy. Công an thị trấn H đưa G về trụ sở làm việc và phát hiện trong túi áo khoác của G có 01 tép ma túy nên lập biên bản phạm tội quả tang và chuyển Công an huyện Nhơn Trạch giải quyết theo thẩm quyền.
Tang vật vụ án gồm: 01 đoạn ống nhựa màu trắng kích thước 0,4cmx0,1cm được hàn kín 02 đầu có chứa các hạt tinh thể màu trắng; 01 áo khoác màu đen trên tay áo khoác và túi áo khoác có sọc màu xanh.
Tại bản kết luận giám định số 1566/KLGĐ- PC09 ngày 06/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy có khối lượng 0,3363 gam (khối lượng sau giám định là 0,3101 gam), loại Methamphetamine.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo G không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.
Tại bản Cáo trạng số 166/CT.VKS-NT ngày 23/11/2020, Viện kiểm sát nhân nhân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Võ Ngọc G về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo G từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù.
Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật hình sự năm 2015, đề nghị Tòa án tuyên:
Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng là 0,3101gam ma túy, loại Methamphetamine được niêm phong trong phong bì ký hiệu số 1566/KLGĐ- PC09 của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai và 01 áo khoác màu đen trên tay áo khoác và túi áo khoác có sọc màu xanh.
Đối với đối tượng tên Hiếu và 01 người thanh niên đã có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Võ Ngọc G, chưa xác định được nhân thân, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh xử lý sau.
Đối với đối tượng tên Tuyền là người G rủ để cùng sử dụng ma túy, do chưa các định được nhân thân, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra tiếp tục xác minh xử lý sau.
Bị cáo Võ Ngọc G không có ý kiến gì đối với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch.
- Tóm tắt lời khai của người làm chứng Võ Thị Hồng L có trong hồ sơ vụ án như sau:
Vào khoảng 10 giờ 30 phút ngày 01/8/2020 chị đang làm việc tại phòng làm việc của tổ hình sự Công an thị trấn H thì thấy Công an thị trấn H kiểm tra trên túi áo bên phải của một người phụ nữ (sau này chị mới biết là Võ Ngọc G, sinh ănm 2000) thì có 01 đoạn ống nhựa màu trắng bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng được hàn kín 2 đầu, chị nghe Võ Ngọc G khai là ma túy đá. Chị chứng kiến sự việc trên và Công an thị trấn H lập biên bản phạm tội quả tang và xử lý G theo quy định. Chị không biết G là ai, ở đâu và không mâu thuẫn gì với G và cam đoan lời khai là đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Người làm chứng chị Võ Thị Hồng L đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng chị L vắng mặt. Tại hồ sơ thể hiện đầy đủ lời khai của người làm chứng. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt chị G.
[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nhơn Trạch, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhơn Trạch, của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[3] Về hành vi của bị cáo: Trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo G đã khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được có tại hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở xác định:
Vào ngày 01/8/2020, Võ Ngọc G đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 0,3363gam tại khu phố Phước Lai, thị trấn Hiệp Phước, huyện Nhơn Trạch nhằm mục đích để sử dụng thì bị Công an thị trấn Hiệp Phước phát hiện bắt quả tang cùng với tang vật.
Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố để kết luận bị cáo Võ Ngọc G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) như Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.
[4] Về tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, xâm phạm quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng chất ma túy; làm lan tràn tệ nạn xã hội nghiện ma túy và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác. Bị cáo nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo xem thường pháp luật, thực hiện hành vi phạm tội bất chấp hậu quả xảy ra. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên Tòa, bị cáo G tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[7] Về xử lý vật chứng:
Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng là 0,3101gam ma túy, loại Methamphetamine được niêm phong trong phong bì ký hiệu số 1566/KLGĐ- PC09 của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai và 01 áo khoác màu đen trên tay áo khoác và túi áo khoác có sọc màu xanh.
(Các vật chứng nêu trên đã được chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Nhơn Trạch lưu giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/11/2020).
[8] Đối với đối tượng tên H và 01 người thanh niên đã có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Võ Ngọc G, chưa xác định được nhân thân, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh xử lý sau.
Đối với đối tượng tên Tuyền là người G rủ để cùng sử dụng ma túy, do chưa các định được nhân thân, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra tiếp tục xác minh xử lý sau.
[9] Về án phí: Buộc bị cáo Võ Ngọc G phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và các Điều 260, 293, 298, 299, 326, 331, 333, 337 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tuyên bố bị cáo Võ Ngọc G phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Võ Ngọc G 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/8/2020.
2. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47, 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định có khối lượng là 0,3101gam ma túy, loại Methamphetamine được niêm phong trong phong bì ký hiệu số 1566/KLGĐ- PC09 của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai và 01 áo khoác màu đen trên tay áo khoác và túi áo khoác có sọc màu xanh.
(Các vật chứng nêu trên đã được chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Nhơn Trạch lưu giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/11/2020).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Võ Ngọc G phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 160/2020/HSST ngày 29/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 160/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về