Bản án 160/2020/HS-ST ngày 13/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 160/2020/HS-ST NGÀY 13/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 13 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 136/2020/TLST-HS ngày 19 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 161/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Mạnh C sinh năm 1989; nơi sinh: HT; hộ khẩu thường trú: Xóm 4, xã S, huyện C, tỉnh HT; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn D và bà Nguyễn Thị T; tiền án: Ngày 29-8-2006, bị Tòa án nhân dân huyện Can Lộc, tỉnh HT xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 15 tháng về tội Trộm cắp tài sản tại Bản án số 16/2006/HSST; ngày 27-4-2007, bị Tòa án nhân dân huyện Can Lộc, tỉnh HT xử phạt 12 tháng tù về tội Cướp giật tài sản tại Bản án số 06/2007/HSST, tổng hợp hình phạt với Bản án số 16/2006/HSST ngày 29-8-2006 của Tòa án nhân dân huyện Can Lộc, tỉnh HT buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 21 tháng tù; ngày 06-6-2009, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 năm 02 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản tại Bản án số 338/2009/HSST; ngày 08-7-2010, bị Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Dĩ An, tỉnh Bình Dương xử phạt 04 năm tù về tội Trộm cắp tài sản tại Bản án số 149/2010/HSST; ngày 29-3-2011, bị Tòa án nhân dân huyện Can Lộc, tỉnh HT xử phạt 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản tại Bản án số 03/2011/HSST, tổng hợp hình phạt với Bản án số 149/2010/HSST ngày 08-7-2010 của Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Dĩ An, tỉnh Bình Dương buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 06 năm 06 tháng tù, chấp hành xong hình phạt tù ngày 10-10-2016, chấp hành xong án phí ngày 20-7-2017; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19-12-2019 cho đến nay; có mặt.

Bị hại: Bà Lê Thị V, sinh năm 1979; thường trú: Ấp 6, xã N, huyện U, tỉnh C; có đơn xin vắng mặt.

Người làm chứng: Ông Nguyễn KhA A, ông Phan Thành N, ông Nguyễn Văn T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Mạnh C và đối tượng tên Trình (không rõ nhân thân, lai lịch) có mối quan hệ là bạn với nhau. Để có tiền tiêu xài Trình rủ C đi tìm tài sản không người trông coi để chiếm đoạt, mang đi bán lấy tiền tiêu xài, C đồng ý. Thực hiện ý định, khoảng 01 giờ ngày 19-12-2019, ường điều khiển xe mô tô biển số 88P2 – 082.78 chở Trình đi từ thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đến địa bàn thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, khi đi được khoảng 03 km thì Trình bảo C dừng xe lại để Trình điều khiển xe chở C. Đến khoảng 02 giờ 00 phút cùng ngày, khi đi qua quán cơm 69 thuộc khu phố Khánh Hòa, phường Tân Phước Khánh do bà Lê Thị V thuê để buôn bán. Lúc này, C và Trình cùng bàn bạc với nhau đi vào bên trong quán cơm 69 để chiếm đoạt tài sản. Sau đó, Trình điều khiển xe dừng lại phía sau quán cơm 69 (cách hàng rào của quán cơm số 69 khoảng 03 mét), Trình lấy một kìm bằng kim loại, dài khoảng 20 cm, mũi nhọn, cán bọc nhựa màu đỏ ở trong cốp xe 88P2 - 082.78, Trình nói C đứng ngoài cảnh giới cho Trình để Trình dùng kìm cắt lưới hàng rào B40 của quán cơm 69. Khi cắt xong hàng rào, Trình mang kìm cất vào trong cốp xe 88P2 - 082.78. C đi đến vị trí Trình cắt lưới hàng rào để giữ và mở lưới rộng ra cho Trình đi vào bên trong quán cơm. Lúc này, Trình đi vào bên trong quán cơm 69 còn C dẫn xe 88P2 - 082.78 đi đến phía trước quán cơm 69. Khoảng 01 phút sau, Trình đi ra vị trí của C và đưa cho C 01 điện thoại di động hiệu OPPO F9, màu xA, Trình nói mới lấy được chiếc điện thoại này trong quán cơm 69. Trình tiếp tục đi đến vị trí cửa phía trước quán cơm 69 và lấy 01 chìa khóa rồi mở cửa phía trước quán cơm, khi mở được cửa Trình đưa cho C 01 chìa khóa và nói C đi vào vị trí xe 61H5 - 9194, màu đỏ của bà Vàng đang để ở vị trí bên trong quán cơm rồi mở cốp xe 61H5 - 9194 để tìm tài sản trong xe mô tô chiếm đoạt, C đồng ý. C đi đến vị trí xe 61H5 - 9194 và dùng chìa khóa mở cốp xe 61H5 - 9194, C không thấy có tài sản trong cốp xe 61H5 - 9194 nên đi ra vị trí xe 88P2 - 082.78. C khởi động nổ máy xe chở Trình ngồi phía sau bỏ đi. Lúc này, ông Nguyễn Khánh A chở ông Phan Thành N đi ngang qua quán cơm 69, ông A và ông N thấy cửa phía trước quán cơm 69 bị mở, hàng rào B40 phía sau quán của quán cơm đã bị cắt và thấy C điều xe chở Trình có biểu hiện nghi vấn nên đã điều khiển xe đuổi theo, đồng thời truy hô. C điều khiển xe 88P2 - 082.78 chở Trình chạy về hướng vòng xoay An Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Trong quá trình bỏ chạy Trình nói C đưa điện thoại di động hiệu OPPO F9, màu xA vừa chiếm đoạt cho Trình giữ, C đồng ý và đưa điện thoại cho Trình. Khi đi đến khu vực thuộc phường An Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, C điều khiển xe không làm chủ được tốc độ nên bị ngã, ông N và ông A bắt giữ được C giao Công an phường Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, riêng Trình đã chạy thoát. Cùng thời điểm này, bà Vàng phát hiện 01 điện thoại di động hiệu Oppo F9, màu xA đã bị mất nên đến Công an phường Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương để trình báo. Công an phường Tân Phước Khánh tạm giữ xe mô tô biển số 88P2-082.78, số máy RPKFM1P52FMH00050297, số khung H000297.

Công an phường Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương còn tiến hành tạm giữ 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu trắng; 01 cây kìm bằng kim loại, dài khoảng 20 cm, mũi nhọn, cán bọc nhựa màu đỏ; 01 hộp nhựa đựng điện thoại OPPO F9.

Sau đó, Công an phường Tân Phước Khánh chuyển hồ sơ vụ việc đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương để thụ lý theo thẩm quyền.

Tại Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 342/KLTS – TTHS ngày 25-12-2019 của Hội đồng định giá tài sản thị xã Tân Uyên kết luận: 01 điện thoại di động hiệu OPPO F9, màu xA trị giá tại thời điểm chiếm đoạt là 4.100.000 đồng.

Cáo trạng số 139/CT-VKS-TU ngày 18-6-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh C về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh C phạm tội “Trộm cắp tài sản” và áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 04 (Bốn) đến 05 (Năm) năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Lê Thị V không yêu cầu bị cáo bồi thường trị giá tài sản bị chiếm đoạt nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên: Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 xe mô tô biển số 88P2-082.78 và 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu trắng; tịch thu tiêu hủy 01 cây kìm bằng kim loại, dài khoảng 20 cm, mũi nhọn, cán bọc nhựa màu đỏ và 01 hộp nhựa đựng điện thoại OPPO F9.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã nêu. Trong lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm về làm công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được trA tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên tiến hành tố tụng đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người tham gia tố tụng khác không khiếu nại đối với các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Mạnh C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Ngày 19-12-2019, tại khu phố Khánh Hòa, phường Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, bị cáo Nguyễn Mạnh C cùng đồng phạm lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của bà Lê Thị V đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu OPPO F9 màu xA có giá trị tại thời điểm chiếm đoạt là 4.100.000 đồng. Bị cáo đã từng bị kết án về hành vi trộm cắp tài sản, đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản với tình tiết định khung là tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 139/CT-VKS-TU ngày 18-6-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo theo tội dA và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Bị cáo là người thành niên, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích tư lợi, thái độ coi thường pháp luật mà cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự trên địa bàn. Do đó, cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét toàn diện về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo.

[4] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân rất xấu, từ năm 2005 đến nay liên tục có hành vi phạm tội bị truy tố, xét xử.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[7] Mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là cao. Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét quyết định mức hình phạt thấp hơn đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Lê Thị V không yêu cầu bị cáo bồi thường trị giá tài sản bị chiếm đoạt nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[9] Về xử lý vật chứng, áp dụng biện pháp tư pháp: Xe mô tô biển số 88P2- 082.78 là phương tiện phạm tội, cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước. Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu trắng là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo; đối với 01 cây kìm bằng kim loại, dài khoảng 20 cm, mũi nhọn, cán bọc nhựa màu đỏ và 01 hộp nhựa đựng điện thoại OPPO F9 không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58, Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh C 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 19-12-2019.

2. Về xử lý vật chứng, áp dụng biện pháp tư pháp:

Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 xe mô tô màu xA, biển số 88P2- 082.78, số máy RPKFM1P52FMH00050297, số khung H000297;

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia, màu trắng, Model 1010, số IMEI 357342089283209;

Tịch thu tiêu hủy 01 hộp đựng điện thoại di động hiệu OPPO F9 và 01 cây kìm bằng kim loại, dài khoảng 20 cm, mũi nhọn, cán bọc nhựa màu đỏ.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12-8-2020) 3. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Mạnh C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 160/2020/HS-ST ngày 13/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:160/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về