Bản án 160/2019/HSST ngày 29/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 160/2019/HSST NGÀY 29/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 29 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 175/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 220/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019, đối với các bị cáo:

1. PHAN HOÀI D, sinh ngày 26 tháng 12 năm 1993 tại Gia Lai; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn C, xã T, thị xã A, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Thợ cắt tóc; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Hồng H, sinh năm 1965 và bà Phan Thị T, sinh năm 1965; Hiện cha, mẹ bị cáo đang trú tại: Thôn C, xã T, thị xã A, tỉnh Gia Lai; Gia đình bị cáo có 07 anh, em ruột (lớn nhất sinh năm 1983, nhỏ nhất sinh năm 2002); bị cáo chưa có vợ; tiền án, tiền sự: Không.

Ngày 09/12/2016, có hành vi gây rối trật tự công cộng. Ngày 27/12/2016, bị Công an phường T, thị xã A, tỉnh Gia Lai xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền. Ngày 27/12/2016, Phan Hoài D đã chấp hành xong.

Ngày 28/7/2017, có hành vi cố ý gây thương tích; cùng ngày bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã T, thị xã A, tỉnh Gia Lai xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền.

Ngày 03/8/2017, Phan Hoài D đã chấp hành xong.

Bị cáo Phan Hoài D bị tạm giữ từ ngày 23/5/2019 đến ngày 01/6/2019, sau đó bị tạm giam cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố P. Có mặt.

2. ĐĂNG MINH P, sinh ngày 23 tháng 3 năm 1985 tại Gia Lai; nơi ĐKHKTT: Tổ 01, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai; chỗ ở trước khi bị bắt: Tổ 09, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: Lái xe thuê; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Minh P, sinh năm 1956 và bà Phan Thị Thanh L, sinh năm 1964; Hiện cha, mẹ bị cáo đang trú tại: Tổ 01, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai; Gia đình bị cáo có 02 em ruột (sinh năm 1987 và năm 1990); bị cáo có vợ là Đặng Thị Mộng L, sinh năm 1983 và có 01 (một) người con sinh năm 2013; Hiện vợ con bị cáo đang trú tại: Quận 09, Thành phố Hồ Chí Mình; tiền án, tiền sự: Không.

Ngày 26/6/2001, bị Tòa án nhân dân huyện I, tỉnh Gia Lai, xét xử, tuyên phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng, về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Bản án này đã xóa án tích).

Bị cáo Đăng Minh P bị tạm giữ từ ngày 23/5/2019 đến ngày 01/6/2019, sau đó bị tạm giam cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố P. Có mặt.

Người chứng kiến:

- Ông Lê Quang Đ; địa chỉ: Tổ 01, phường Y, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

- Ông Nguyễn Công Q; địa chỉ: Tổ 09, phường H, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Trên cơ sở kết quả điều tra, xác định được như sau:

Phan Hoài D và Đăng Minh P là bạn bè quen biết nhau từ tháng 8/2018 và đều là những người có sử dụng ma túy. Khoảng tháng 8/2018, D đi vào thành phố Hồ Chí Minh chơi thì gặp đối tượng tên P (không rõ nhân thân, lai lịch) và D có số điện thoại của P. Khi ngồi nói chuyện thì D biết P có bán ma túy. Ngày 20/5/2019, Đăng Minh P nhặt được 01 gói nilon chứa ma túy dạng tinh thể màu trắng trên đường H, thành phố P, rồi cất giữ trong người với mục đích để sử dụng. Chiều ngày 20/5/2019, D đi từ thị xã A, tỉnh Gia Lai đến phòng trọ của Phúc chơi và ngủ lại tại đây. Sáng ngày 21/5/2019, P và D lấy gói ma túy mà P nhặt được rồi cùng nhau sử dụng một ít, số ma túy còn lại thì P cất giữ tại phòng trọ số 3, dãy nhà trọ số 246/15/5 đường P, Tổ 9, phường H, thành phố P (nơi P đang thuê ở) để cùng với D sử dụng dần. Sau khi sử dụng ma túy xong, D rủ P mua ma túy ở thành phố Hồ Chí Minh về bán kiếm lời, P đồng ý. Đến chiều ngày 21/5/2019, D gọi điện thoại cho P ở thành phố Hồ Chí Minh và hỏi mua ma túy dạng thuốc lắc với số tiền 26.000.000 đồng, P đồng ý. Việc giao dịch mua bán ma túy thì D và P thống nhất, cụ thể: D gửi tiền vào cho P bằng đường xe khách theo tuyến từ thành phố P đi bến xe M, thành phố Hồ Chí Minh và ghi số điện thoại người nhận là P, còn P gửi ma túy cho D bằng đường xe khách theo tuyến từ Bến xe M, thành phố Hồ Chí Minh về thành phố P, tỉnh Gia Lai và ghi số điện thoại người nhận của P là số 0907559619. Sau khi thỏa thuận việc mua bán ma túy xong, D bỏ tiền vào gói giấy và ghi tên người nhận, rồi thuê xe taxi (không rõ hãng nào) đi đến Bến xe Đ Gia Lai gửi qua xe khách (không rõ hãng xe nào) vào thành phố Hồ Chí Minh cho P. Sau đó, D nói P sáng ngày 22/5/2019 đến nhà xe Thuận Ý Gia Lai để nhận ma túy do P gửi ra, P đồng ý. Khoảng 09 giờ ngày 22/5/2019, P thuê xe taxi (không rõ hãng nào) đi đến Văn phòng xe T trên đường P, thành phố P, nhận 01 gói hàng bằng hộp giấy rồi đem về phòng trọ. Tại đây, P mở hộp giấy, bên trong có 50 viên ma túy dạng thuốc lắc của P gửi về. P lấy 01 viên sử dụng thử thì thấy không đạt chất lượng nên P gọi điện thoại nói cho D biết là hàng (tức ma túy) không đạt chất lượng nên D gọi điện cho P nói P phải đổi số ma túy trên cho D, P đồng ý. Đến chiều ngày 22/5/2019, P gói 47 viên ma túy vào hộp giấy rồi thuê xe taxi (không rõ hãng nào) đem đến Bến xe Đ gửi qua xe khách (không rõ hãng xe nào) theo tuyến từ Gia Lai đi Bến xe M, thành phố Hồ Chí Minh để trả lại cho P; 02 viên còn lại thì P cất tại phòng trọ của P, để D và P bán cho người nghiện ma túy với giá rẻ. Sáng ngày 23/5/2019, D nói P đến Văn phòng xe khách B để lấy hàng (tức ma túy) do P gửi ra, P đồng ý. Khoảng 12 giờ cùng ngày, P thuê xe taxi (không rõ hãng nào) đi đến Văn phòng xe khách B ở số nhà 34 đường N, phường Y, thành phố P, nhận 01 hộp giấy bên trong có đựng ma túy do P gửi ra. Khi P vừa mang hộp giấy này đi ra đến trước cửa của Văn phòng xe khách B thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P phát hiện, bắt quả tang. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ trên tay của Đăng Minh P 01 hộp giấy bên trong có 50 viên nén màu xanh (được niên phong theo quy định), đánh số “I”; 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen-xám, kèm sim số 0907.559.619 - số seria: 8401.1809.3319.8661WD và 01 điện thoại di động hiệu Sam Sung màu xám, kèm sim số 0329.418.802 - số seria: 8984.0480.0018.0001.9855.855 . Ngay sau đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của P tại phòng trọ số 3 thuộc khu nhà trọ số 246/15/5 đường P, Tổ 9, phường H, thành phố P thì P tự nguyện giao nộp tang vật, gồm: 01 gói nilon bên trong chứa 02 viên nén màu xanh và 01 gói nilon bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng (được niêm phong theo quy định) đánh số “II”. Đến 15 giờ 00 phút ngày 23/5/2019, Phan Hoài D ra đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ của Phan Hoài D 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone màu đen, cùng sim số 0961.515.777 .

Bị cáo Phan Hoài D và Đăng Minh P đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

2. Các vấn đề khác:

Qua trưng cầu, tại Kết luận giám định số 400/KLGĐ ngày 30/5/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, kết luận: “50 (năm mươi) viên nén màu xanh trong bì nilon trong phong bì niêm phong đánh số “I”, có tổng khối lượng: 17,4720 gam là ma túy, loại MDMA; chất rắn màu trắng dạng tinh thể trong 01 (một) gói nilon trong bì thư niêm phong đánh số “II”, có khối lượng: 0,0431 gam là ma túy, loại Ketamine; 02 (hai) viên nén màu xanh trong bì thư niêm phong đánh số “II”, có khối lượng 0,8763 gam, không tìm thấy các chất ma túy thường gặp”.

Tại Kết luận giám định số 647/KLGĐ ngày 28/8/2019 của Phân viện Khoa học Hình sự tại thành phố Đà Nẵng kết luận: “Phần còn lại của 02 viên nén màu xanh trong gói nilon thuộc bì thư ghi “II” niêm phong trong trong bì thư của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai, có đặc điểm mặt trước ghi ký hiệu “III” gửi giám định đều là ma túy, loại FUB-144”. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận nêu trên.

3. Cáo trạng của Viện kiểm sát:

Bản cáo trạng số: 173/CT-VKS ngày 14/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai đã truy tố các bị cáo Phan Hoài D, Đăng Minh P về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm p khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo Phan Hoài D, Đăng Minh P và đề nghị Hội đồng xét xử: Về hình sự:

Tuyên bố bị cáo Phan Hoài D, Đăng Minh P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Đề nghị áp dụng điểm p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 50, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo Phan Hoài D với mức án từ 09 năm đến 09 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 23/5/2019.

Đề nghị áp dụng điểm p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 50, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo Đăng Minh P với mức án từ 09 năm đến 09 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 23/5/2019.

Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu và tiêu hủy 02 (hai) bì công văn số 400/PC09 ngày 30/5/2019 đánh dấu thứ tự số I, II có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai.

Tịch thu và tiêu hủy 01 (một) bì công văn số 647/C09 (Đ4) ngày 18/8/2019 có dấu niêm phong của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước của bị cáo Đăng Minh P 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen xám, có kèm sim trên sim có dãy số 8401180933198661WD (điện thoại cũ đã qua sử dụng) và 01 điện thoại di động Sam Sung màu xám vàng, có kèm sim trên sim có dãy số 8984048000019855855 (điện thoại cũ đã qua sử dụng).

Tịch thu sung quỹ Nhà nước của Phan Hoài D 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone màu đen, có kèm sim trên sim có dãy số 8984048000048014259 (điện thoại cũ đã qua sử dụng).

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu 200.000đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của các bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án:

Bị cáo D: Bị cáo thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất hối hận vì việc làm của mình, kính mong Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo P: Bị cáo thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo rất ăn năn hối hận về hành vi sai trái của mình và cam đoan sẽ không phạm tội nữa, xin Hội đồng xét xử xem xét và giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P, tỉnh Gia Lai; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc có khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi bị truy tố của các bị cáo:

Xét thấy lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Phan Hoài D và Đăng Minh P phạm tội như sau:

Vì động cơ vụ lợi cá nhân nên vào sáng ngày 21/5/2019, tại thành phố P, tỉnh Gia Lai, Phan Hoài D rủ Đăng Minh P mua ma túy từ thành phố Hồ Chí Minh để bán lại kiếm lời thì P đồng ý. Sau đó, D gọi điện thoại cho đối tượng P (không rõ nhân thân, lai lịch) ở thành phố Hồ Chí Minh mua 50 viên nén ma túy loại MDMA, tổng khối lượng 17,4720 gam với giá 26.000.000 đồng gửi về cho D và P, thì P đồng ý. Vào lúc 12 giờ ngày 23/5/2019, khi P vừa nhận số ma túy do P gửi về tại Văn phòng xe khách B ở số 34 đường N, phường Y, thành phố P đi ra thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P phát hiện, bắt quả tang và thu giữ tang vật. Đến 13 giờ ngày 23/5/2019, Phan Hoài D ra đầu thú. Qua khám xét nơi ở của P tại số nhà 246/15/5 đường P, tổ 9, phường H, thành phố P, Cơ quan điều tra đã thu giữ của P 02 viên nén đều là ma túy, loại FUB-144, khối lượng 0,8763 gam, P và D cất giấu nhằm mục đích để bán; 0,0431 gam là ma túy, loại Ketamine, P cất giấu nhằm mục đích để sử dụng.

Tại Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

….

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a) Có tổ chức;

i) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;

n) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 20 gam đến dưới 100 gam;

p) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm h đến điểm o khoản này;

…”.

Ma tuý là chất độc, có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, khi vào cơ thể con người có tác dụng làm thay đổi trạng thái ý thức và tâm sinh lý của con người, làm hạn chế hoạt động của não bộ và gây ức chế hệ thần kinh. Sự nghiện ngập là biểu hiện của trạng thái ngộ độc mãn tính do chất ma tuý gây ra, làm tổn thương cho bản thân. Ma tuý gây tác hại về nhiều mặt trong đời sống, xã hội. Sử dụng ma tuý làm suy thoái nhân cách, phẩm giá con người, gây xói mòn đạo lý, kinh tế, xã hội. Hành vi phạm tội của các bị cáo là rất nguy hiểm, không chỉ xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma tuý mà còn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự tại địa phương.

Bị cáo Phan Hoài D và bị cáo Đăng Minh P đều là người đã trưởng thành, có trình độ học vấn nhất định, lẽ ra các bị cáo phải nhận thức được tác hại và hậu quả của việc mua bán ma túy để tránh xa mà tập trung làm ăn, lao động chân chính để trở thành công dân có ích cho xã hội. Nhưng vì muốn có tiền tiêu xài bất chính các bị cáo đã mua 50 viên nén ma túy loại MDMA, tổng khối lượng 17,4720 gam với số tiền 26.000.000 đồng và cất dấu 02 viên nén ma túy, loại FUB-144, khối lượng 0,8763 gam với mục đích để bán; bị cáo P tàng trữ 0,0431 gam là ma túy, loại Ketamine với mục đích để sử dụng. Đây là vụ án đồng phạm mang tính giản đơn, trong đó bị cáo Phan Hoài D là người khởi xướng, bị cáo Đăng Minh P là người tích cực thực hiện hành vi phạm tội.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước, góp phần tiếp tay gieo rắc nạn dịch HIV-AIDS và những tệ nạn xã hội khác. Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai đã truy tố là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo một mức án tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của từng bị cáo gây ra, nhằm giáo dục các bị cáo cải tạo bản thân tiến bộ là cần thiết.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Các bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa cả hai bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho hai bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo D sau khi phạm tội đã ra đầu thú nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.Vì vậy Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo khi quyết định hình phạt.

[4] Về vật chứng vụ án:

Đối với 02 (hai) bì công văn số 400/PC09 ngày 30/5/2019 đánh dấu thứ tự số I, II có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai và 01 (một) bì công văn số 647/C09 (Đ4) ngày 18/8/2019 có dấu niêm phong của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng. Xét đây là tang vật của vụ án nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen xám, có kèm sim trên sim có dãy số 8401180933198661WD (điện thoại cũ đã qua sử dụng); 01 điện thoại di động Sam Sung màu xám vàng, có kèm sim trên sim có dãy số 8984048000019855855 (điện thoại cũ đã qua sử dụng) thu giữ của Đăng Minh P và 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone màu đen, có kèm sim trên sim có dãy số 8984048000048014259 (điện thoại cũ đã qua sử dụng) thu giữ của Phan Hoài D. Xét đây là các phương tiện mà các bị cáo dùng liên lạc để mua ma túy nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[5] Về hình phạt bổ sung: Mục đích của các bị cáo mua ma túy về để bán, nhưng chưa bán được, không có thu lợi nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Về các vấn đề khác: Đối với chất rắn màu trắng dạng tinh thể trong 01 gói nilon trong bì thư niêm phong đánh số II, có khối lượng: 0,0431 gam là ma túy, loại Ketamine mà bị cáo Đăng Minh P cất giấu nhằm mục đích sử dụng. Do chưa đủ định lượng để khởi tố bị cáo P, về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố P đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với P là có căn cứ.

Đối với người nam thanh niên tên Phi là người mà bị cáo Phan Hoài D khai đã bán ma túy cho bị cáo D, quá trình điều tra do bị cáo D không biết được nhân thân, lai lịch của P. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành mở danh bạ và nhật ký điện thoại đã thu giữ của D nhưng không xác định được số điện thoại của P nên chưa có căn cứ để điều tra. Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào xác định được sẽ xem xét và xử lý sau.

[7] Về án phí: Bị cáo Phan Hoài D và Đăng Minh P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm p khoản 2 Điều 251; Điều 38, Điều 50, Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Phan Hoài D.

- Căn cứ vào điểm p khoản 2 Điều 251; Điều 38, Điều 50, Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Đăng Minh P.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phan Hoài D và bị cáo Đăng Minh P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Phan Hoài D 09 (chín) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 23/5/2019.

Xử phạt bị cáo Đăng Minh P 09 (chín) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 23/5/2019.

3. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Xử: Tịch thu và tiêu hủy 02 (hai) bì công văn số 400/PC09 ngày 30/5/2019 đánh dấu thứ tự số I, II có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Gia Lai và 01 (một) bì công văn số 647/C09 (Đ4) ngày 18/8/2019 có dấu niêm phong của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Đà Nẵng.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen xám, có kèm sim trên sim có dãy số 8401180933198661WD (điện thoại cũ đã qua sử dụng); 01 điện thoại di động Sam Sung màu xám vàng, có kèm sim trên sim có dãy số 8984048000019855855 (điện thoại cũ đã qua sử dụng) thu giữ của Đăng Minh P.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone màu đen, có kèm sim trên sim có dãy số 8984048000048014259 (điện thoại cũ đã qua sử dụng) thu giữ của Phan Hoài D.

(Tất cả theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 19/11/2019 giữa Công an thành phố P, tỉnh Gia Lai và Chi cục thi hành án dân sự thành phố P,tỉnh Gia Lai).

4. Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Phan Hoài D và bị cáo Đăng Minh P, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ vào các Điều 331 và 333 của Bộ luật tố Tụng hình sự năm 2015;

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 160/2019/HSST ngày 29/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:160/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về