Bản án 160/2019/HSST ngày 14/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 160/2019/HSST NGÀY 14/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 168/2019/HSST ngày 26/9/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Công D, sinh năm 1970; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Khu chợ, thị trấn V, huyện T, thành phố H; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 5/12; Con ông Nguyễn S, con bà Trương Thị C, có vợ là Nguyễn Thị H (đã ly hôn), có một con sinh năm 2000; Tiền án tiền sự: Ngày 27/8/1988, Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh N xử phạt 18 tháng tù về tội “Lừa đảo tài sản riêng công dân”; Ngày 13/12/1991, Tòa án nhân dân thành phố H phạt 36 tháng tù về tội “Cướp tài sản”; Ngày 19/07/1995, Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xử phạt 30 tháng tù về tội “Chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; Ngày 29/9/2006, Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H phạt 10 tháng tù về tội “Chứa chấp tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; Ngày 28/11/2008, Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Danh chỉ bản số 0324 lập ngày 21/6/2019, tại Công an huyện T); Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/6/2019, tạm giam từ ngày 26/6/2019, hiện đang tạm giam - có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Bị cáo Nguyễn Công D bị Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 15h30 ngày 20/6/2019, tại đường gom Đội 9, xã N, huyện T, thành phố H, tổ công tác đội cảnh sát điều tra ma túy, Công an huyện T, thành phố H bắt quả tang Nguyễn Công D tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ của D 01 gói giấy bên trong có chứa chất bột màu trắng, qua giám định là Heroin có khối lượng 0,236g.

Nguyễn Công D khai: Số ma túy này D mua của một thanh niên không quen biết tại khu vực đường gom Đội 9, xã N, huyện T, thành phố H với số tiền 200.000đ để về sử dụng. Khi đang tìm nơi sử dụng thì bị phát hiện và bắt giữ.

Tại bản áo trạng số 168/CT-VKSTT ngày 23/9/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố Nguyễn Công D về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa: Bị cáo thừa nhận ngày 20/6/2019 tàng trữ trái phép 0,236g Heroin. Bị cáo ăn năn hối cải đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo từ 18 - 20 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Tịch thu 0,174g Heroin còn lại sau giám định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viện, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, tang vật thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án: Đủ cơ sở kết luận: Ngày 20/6/2019, tại khu vực đường gom Đội 9, xã N, huyện T, thành phố H, Nguyễn Công D đã có hành vi cất giữ trái phép 0,236g Heroin – một chất ma túy độc hại. Với kết quả điều tra chỉ đủ căn cứ chứng minh bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng. Đối chiếu quy định của pháp luật, bị cáo phạm tội "ng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Viện kiểm sát truy tố bị cáo ra xét xử theo tội danh và điều luật đã viễn dẫn là có căn cứ pháp lý.

Ma túy là hiểm họa của xã hội bởi ma túy không chỉ là nguyên nhân dẫn đến căn bệnh chết người- bệnh AIDS, làm thiệt hại kinh tế, gây suy thoái đạo đức và lối sồng mà còn là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tội phạm nguy hiểm. Đấu tranh phòng chống ma túy là trách nhiệm của mọi người. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Do tính chất nguy hiểm của hành vi, cần thiết phải xử lý bị cáo bằng pháp luật hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo có 05 tiền án, mặc dù các tiền án đã được xóa nhưng thể hiện bị cáo là người có nhân thân xấu, đã được cải tạo giáo dục nhưng vẫn tiếp tục phạm tội.

Để trừng trị đồng thời cải tạo, giáo dục bị cáo làm bài học răn đe người khác, cần áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội nhân thân của bị cáo. Cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian. Khi lượng hình có xem xét bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải để giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

Xem xét thấy bị cáo không có việc làm, bản thân phải chấp hành hình phạt tù nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối vợi bị cáo Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ 0,236g Heroin để thực hiện việc giám định bằng phương pháp phản ứng hóa học, sắc ký lớp mỏng, sắc ký khí (sau khi giám định không thu hồi được số ma túy đã trích), hiện chỉ còn 0,174g Heroin là một chất độc hại cần tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo phải chịu án phí HSST, được kháng cáo bản án theo Điều 136, 331, 333 BLTTHS và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án ".

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

 * Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Công D phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy

Áp dụng điểm c khoản 1, Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Công D 20 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/6/2019

* Về vật chứng: Căn cứ Điều 106 BLTTHS 2015. Tịch thu tiêu hủy 0,174g Heroin còn lại sau giám định. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/10/2019)

* Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thư, miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

* Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Bị cáo được kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

319
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 160/2019/HSST ngày 14/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:160/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Trì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về