Bản án 160/2017/HSST ngày 22/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH Q
BẢN ÁN 160/2017/HSST NGÀY 22/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 11 năm 2017, tại Nhà văn hoá Tổ 8, phường Tân H, thành phố T, tỉnh Q mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 157/2017/HSST ngày 01 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo:

LÊ KHẮC Đ, sinh năm 1983. Trú tại: Xóm 13, xã Tràng Đ, thành phố T, tỉnh Q. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Lê Khắc C – Sinh năm 1957 và bà Đặng Thị Q - Sinh năm 1959; Có vợ là Ma Thị M, sinh năm 1979; Có 01 con, sinh năm 2009.

*Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/8/2017, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Tuyên Quang. Có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo Lê Khắc Đ bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Q truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Hồi 16 giờ 30 phúT ngày 19/8/2017; tại trụ sở Công an thành phố T, tỉnh Q; tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố T, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lê Khắc Đ về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Thu giữ, niêm phong của Độ 02 gói nhỏ, bên ngoài được gói bằng giấy bạc màu vàng, bên trong chứa chất bột vón cục màu trắng ngà; Đ khai nhận là Hêrôin, tàng trữ để sử dụng. Ngoài ra, còn tạm giữ của Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel A216, màu đen, Imei 1: 867794021084090, Imei 2:

867794021084108; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe Sirius, BKS 22B1 – 649.91.

Tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với Đ, kết quả: (+) dương tính (có chất ma túy trong cơ thể Độ).

Tại Kết luận giám định số 427/GĐKTHS ngày 22/8/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q, kết luận: Số chất bột vón cục màu trắng ngà trong gói 02 nhỏ thu giữ của Lê Khắc Đ gửi giám định là Heroine (Hêrôin), trọng lượng 0,261g (không phẩy hai sáu một gam).

Từ nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 161/QĐ-KSĐT ngày 31 tháng 10 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T đã truy tố bị cáo Lê Khắc Đ về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 194 Bộ Luật Hình sự.

Tại phiên tòa, kết thúc phần xét hỏi Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Khắc Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Áp dụng khoản 1 Điều 194; đoạn 1, 2 điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999; Khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 của Bộ Luật Hình sự  2015Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội, Xử phạt bị cáo Lê Khắc Đ từ 01(một) năm đến 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 76 Bộ Luật Tố tụng Hình sự. Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel A216, màu đen, Imei 1: 867794021084090, Imei 2:

867794021084108 nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án; Tịch thu tiêu huỷ số Hêrôin thu giữ của bị cáo được niêm phong còn nguyên vẹn.

Ngoài ra, kiểm sát viên còn đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo; tuyên quyền kháng cáo và buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà bị cáo Lê Khắc Đ khai nhận: Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 19/8/2017, Đ từ nhà đến khu vực Trung tâm thương mại Vincom, thuộc tổ 18 phường Phan Th, thành phố T. Mục đích tìm mua hêrôin về sử dụng. Tại đây, Đ gặp người đàn ông (không quen biết, từ ngày 18/8/2017, đã bán hêrôin cho Đ tại khu vực Trường cấp III T thuộc tổ 32, phường T Q, thành phố T); Đ mua của người đàn ông đó 02 gói nhỏ hêrôin với giá 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng). Sau đó Đ đi về đến khu vực đường tránh lũ thuộc khu vực tổ 9, phường T, thành phố T thì bị tổ công tác Công an thành phố T phát hiện, thu giữ vật chứng và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Mục đích Đ cất dấu số chất ma tuý mà cơ quan Công an thành phố T thu giữ là để sử dụng cho bản thân. Bị cáo nhất trí luận tội của Kiểm sát viên, không tranh luận gì, chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.

XÉT THẤY

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lê Khắc Đ đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản khám xét; vật chứng thu giữ; kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Các chứng cứ trên đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 19/8/2017; tại tổ 9 phường T, thành phố T, tỉnh Q; Bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,261g (không phẩy hai sáu một gam) hêrôin, mục đích để sử dụng Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma túy, ảnh hưởng đến trật tự trị an tại địa phương, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác; Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Do vậy HĐXX xét thấy cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù giam nghiêm minh, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và răn đe cho những đối tượng khác, đồng thời góp phần vào công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt HĐXX thấy cần xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đó là: Quá trình điều tra và tại phiên toà đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có mẹ đẻ được tặng thưởng Bằng khen, Huy chương vì sự nghiệp giáo dục. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Hiện bị cáo bị truy tố xét xử theo khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999 và mức hình phạt được quy định từ 02 năm đến 07 năm, xong tại khoản 2 Điều 249 BLHS năm 2015 thì cũng với tội danh “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và với trọng lượng hêrôin mà bị cáo tàng trữ thì mức hình phạt đã được giảm xuống là từ 01 năm đến 05 năm. Trong khi đó tại khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015 quy định “Điều luật xoá bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới.., thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành”. Do vậy, căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội về thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015, HĐXX thấy khi lượng hình cần xem xét áp dụng theo hướng có lợi cho bị cáo do có sự thay đổi về pháp luật.

Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma tuý và hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo nhằm mục đích sử dụng, không có mục đích vụ lợi; bị cáo cũng không có thu nhập, tài sản gì nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Lê Khắc Đ, ngày 12/9/2017 Công an thành phố T đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, hình thức phạt tiền 750.000đ (bảy trăm năm mươi nghìn đồng).

Đối với người đàn ông, theo bị cáo khai đã bán ma túy cho bị cáo tại khu vực Vincom (thuộc tổ 18, phường Ph, thành phố T), nhưng không biết họ tên, địa chỉ nơi ở nên không có căn cứ xác minh điều tra, xử lý.

Quá trình điều tra, Công an thành phố T tạm giữ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe Sirius, BKS 22B1 – 649.91 của chị Ma Thị M (vợ của bị cáo). Khi bị cáo lấy xe máy của chị M đi mua Hêrôin chị không biết, nên ngày 05/9/2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã trả lại chiếc xe trên cho chị M.

*Về vật chứng: Đối với 01 (một) phong bì niêm phong có chữ ký của bị cáo Lê Khắc Đ và 05 hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Q, bên trong có chứa hêrôin là (đối tượng giám định hoàn lại) cần tịch thu tiêu hủy.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Khắc Đ phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

1. Áp dụng khoản 1 điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999; Khoản 3 Điều 7; Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội Xử phạt bị cáo Lê Khắc Đ 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ tạm giam (19/8/2017) 2. Áp dụng Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel A216, màu đen, Imei 1: 867794021084090, Imei 2: 867794021084108 nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong có chữ ký của bị cáo Lê Khắc Độ và 05 hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Q, bên trong có chứa hêrôin (là đối tượng giám định hoàn lại).

- Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố T và Chi cục thi hành án dân sự thành phố T ngày 13/11/2017.

3. Áp dụng các Điều 99, 231, 234 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Phí và Lệ phí 2015Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội:

-Bị cáo Lê Khắc Đ phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

-Bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

460
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 160/2017/HSST ngày 22/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:160/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tam Kỳ - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về