Bản án 159/2021/HS-ST ngày 27/09/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 159/2021/HS-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 155/2021/TLST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 170/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Dương Ngọc Đ, sinh ngày 20 tháng 9 năm 1948 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Đường Đ, phường L, quận N, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 6/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Ngọc Đi (đã ch ết) và bà Phùng Thị V (đã chết); có vợ là Lương Thị H và 02 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: Tại Bản án số 83/2007/HSST ngày 14/6/2007, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xử phạt 07 năm tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích); tạm giữ từ ngày 23/6/2021, tạm giam ngày 24/6/2021; có mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Nguyễn Văn M; vắng mặt;

+ Anh Phạm Văn T; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 45 ngày 23/6/2021, tại nhà của Dương Ngọc Đ ở số 3/156 đường Đà Nẵng, phường Lạc Viên, quận Ngô Quyền, lực lượng Công an quận Ngô Quyền bắt quả tang Dương Ngọc Đ có hành vi bán trái phép chất ma tuý cho Nguyễn Văn M sinh năm 1987, trú tại nhà số 180 đường Đông Khê, phường Đông Khê, quận Ngô Quyền. Vật chứng: Thu giữ của M 01 gói giấy bên trong có 01 túi nilon kích thước 2cm x 2cm chứa tinh thể màu trắng (mẫu số 1); Thu giữ của Đ 01 hộp sắt (vỏ bao thuốc lá Thăng Long) đựng 14 gói giấy đều có kích thước 3cm x 3cm, trong đó có 03 gói có ghi số “3” ngoài vỏ gói và 11 gói ghi số “2” ngoài vỏ gói, trong mỗi gói giấy có 01 túi nilon kích thước 2cm x 2cm đều chứa tinh thể màu trắng (mẫu số 2) và 200.000 đồng. Lực lượng công an lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và dẫn giải các đối tượng về trụ sở làm rõ.

Kết quả khám xét khẩn cấp nơi ở, đồ vật của Dương Ngọc Đ phát hiện thu giữ: 01 hộp giấy màu trắng để trên bàn uống nước ở phòng khách, bên trong có 02 túi nilon mỗi túi có kích thước 7cm x 8cm, trong đó: 01 túi chứa 03 gói giấy mỗi gói có kích thước 3cm x 3cm đều ghi số 3, bên trong mỗi gói giấy là 01 túi nilon nhỏ màu trắng kích thước 2cm x 2cm chứa tinh thể màu trắng; 01 túi nilon còn lại chứa 09 gói giấy mỗi gói có kích thước 3cm x 3cm đều ghi số 2, bên trong mỗi gói giấy là 01 túi nilon nhỏ màu trắng kích thước 2cm x 2cm chứa tinh thể màu trắng (mẫu số 3).

Tại Kết luận giám định số 406/KLGĐ-MT ngày 25/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng, kết luận: “Chất tinh thể màu trắng của mẫu số 1 gửi giám định là ma tuý, có khối lượng: 0,01 gam là loại Methamphetamine; Chất tinh thể màu trắng của mẫu số 2 gửi giám định là ma tuý, có khối lượng: 2,92 gam là loại Methamphetamine; Chất tinh thể màu trắng của mẫu số 3 gửi giám định là ma tuý, có khối lượng: 2,58 gam là loại Methamphetamine”.

Tại Cơ quan điều tra, Dương Ngọc Đ và Nguyễn Văn M khai nhận: Do hoàn cảnh khó khăn nên Đ nảy sinh ý định mua ma túy đá về bán kiếm lời. Khoảng ngày 11/6/2021, bị cáo Đ đến khu vực ngã 6 Lê Lai, quận Ngô Quyền mua của người phụ nữ không quen biết tên “Vân” 2.000.000 đồng ma túy đá được 30 túi nilon, mỗi túi có kích thước 2cm x 2cm chứa ma túy đá. bị cáo mang ma túy về nhà phân ra thành hai loại (gồm: 06 túi có nhiều ma túy hơn thì Đ lấy mảnh giấy báo gói từng túi lại và ghi số “3” ngoài vỏ gói, bị cáo sẽ bán giá 300.000 đồng/ gói; 24 túi còn lại Đ cũng gói một số túi bằng mảnh giấy báo rồi ghi số “2” ngoài vỏ gói, một số túi bị cáo không gói giấy bên ngoài và đều bán với giá 200.000 đồng/ gói). Sau đó bị cáo chia đôi số ma túy ra, 15 gói cho vào 02 túi nilon mỗi túi có kích thước 7cm x 8cm rồi cất giấu trong hộp giấy màu trắng để trên bàn uống nước ở phòng khách; 15 gói còn lại Đ cho vào 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long bằng sắt, để có khách đến hỏi mua thì bán.

Khoảng 21 giờ ngày 21/6/2021, Đ bán cho Nguyễn Văn M 01 gói ma túy đá giá 200.000 đồng; khoảng 15 giờ ngày 22/6/2021, bị cáo bán cho Nguyễn Văn M 01 gói ma túy đá giá 200.000 đồng và đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Đ bán 01 gói ma túy đá giá 200.000 đồng cho người nam giới không quen biết; Khoảng 11 giờ 45 phút ngày 23/6/2021, bị cáo vừa bán cho Nguyễn Văn M 01 gói ma túy đá giá 200.000 đồng thì bị lực lượng công an bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.

Ngoài ra, bị cáo còn khai nếu bán trót lọt số ma túy trên, bị cáo sẽ thu về tổng số tiền là 6.600.000 đồng, kiếm lời 4.600.000 đồng. Bị cáo không biết lai lịch, địa chỉ của người phụ nữ tên “Vân” bán ma túy cho bị cáo ở đâu.

Lời khai nhận tội của bị cáo Dương Ngọc Đ, phù hợp với lời khai của Nguyễn Văn M, lời khai của những người chứng kiến (bút lục số 21 đến 24), Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng của vụ án: 01 gói ma túy Methamphetamine thu giữ của Nguyễn Văn M có khối lượng 0,01 gam, cơ quan giám định lấy ra giám định hết, còn hoàn lại vỏ bao gói của mẫu vật; 26 gói ma túy Methamphetamine thu giữ của bị cáo có khối lượng 5,50 gam, cơ quan giám định lấy ra 0,64 gam để giám định, còn lại 4,86 gam và toàn bộ vỏ bao gói của mẫu vật được đựng trong 01 bì giấy dấu niêm phong số 406MT/PC09 và 200.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 154/CT-VKS ngày 13/9/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định điểm b, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện toàn bộ hành vi của mình như nội dung Cáo trạng, phù hợp với hồ sơ vụ án.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm b, i khoản 2 Điều 251; điểm o, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo với mức án từ 08 (tám) đến 09 (chín) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có thu nhập, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Do chất ma túy là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên căn cứ vào khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy tang vật gồm 01 bì giấy dấu niêm phong số 406MT/PC09; tịch thu số tiền 200.000 (hai trăm nghìn) đ ồng do bị cáo bán ma túy cho Nguyễn Văn M vào ngày 23/6/2021 để nộp vào ngân sách Nhà nước theo theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 14 tháng 9 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Buộc bị cáo phải nộp lại số tiền 400.000 (bốn trăm nghìn) đ ồng do bị cáo bán ma túy cho Nguyễn Văn M ngày 21/6/2021 và ngày 22/6/2021 để nộp vào ngân sách nhà nước.

Trong vụ án này, Nguyễn Văn M đã mua ma túy của bị cáo để sử dụng cho bản thân, nhưng do ma túy không đủ lượng, nhân thân M có 01 tiền án về tội Mua bán trái phép chất ma túy đã đư ợc xóa án tích, nên hành vi cất giữ trái phép chất ma túy của M không cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Công an quận Ngô Quyền ra quyết định xử phạt hành chính đối với M về hành vi tàng trữ trái phép chất ma.

Đối với người phụ nữ tên “Vân” bán ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra không làm rõ được lai lịch, địa chỉ, nên không có cơ sở để xử lý.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đư ợc thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã th ực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc vắng mặt của người làm chứng: Tại phiên tòa, những người làm chứng đều vắng mặt, không có lý do nhưng trước đó, tại cơ quan điều tra người làm chứng đã có lời khai thể hiện quan điểm nên việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Về tội danh:

+ Về căn cứ xác định tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo:

[3] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, người chứng kiến, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, Bản kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án. Do đó, có căn cứ khẳng định:

[4] Trong khoảng thời gian từ ngày 21/6/2021 đến 23/6/2021, bị cáo Dương Ngọc Đ đã 03 lần bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn Văn M với tổng số tiền là 600.000 đồng nhằm mục đích kiếm lời. Ngoài ra, Dương Ngọc Đ còn cất giấu trái phép khối lượng 5,50 gam Methamphetamine cũng nhằm mục đích bán kiếm lời. Tổng khối lượng ma túy Methamphetamine mà Đ cất giấu và đã bán thu giữ được là 5,51 gam. Tại Kết luận giám định số 406/KLGĐ-MT ngày 25/6/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng, kết luận: “Chất tinh thể màu trắng của mẫu số 1 gửi giám định là ma tuý, có khối lượng: 0,01 gam là loại Methamphetamine; Chất tinh thể màu trắng của mẫu số 2 gửi giám định là ma tuý, có khối lượng: 2,92 gam là loại Methamphetamine; Chất tinh thể màu trắng của mẫu số 3 gửi giám định là ma tuý, có khối lượng: 2,58 gam là loại Methamphetamine”.

[5] Tại thời điểm thực hiện hành vi trên, bị cáo là người trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” với tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên”; “...Methamphetamine...có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam” theo quy định tại điểm b, i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

[6] Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã truy tố các bị cáo về tội danh cũng như đi ều luật áp dụng là có cơ sở, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[7] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách thống nhất quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội nên cần xử lý nghiêm.

+ Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[8] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng theo quy định tại khoản 2 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

+ Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[9] Bị cáo được áp dụng tình tiết “Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên” và “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” theo quy định tại các điểm o, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra sức khỏe của bị cáo rất yếu, nhiều bệnh nền và mới phải mổ ruột thừa; bị cáo gặp khó khăn trong việc tự chăm sóc bản thân nên cũng cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

+ Về áp dụng hình phạt chính đối với các bị cáo:

[10] Bản thân bị cáo đã có 01 tiền án đã đư ợc xóa tích. Lần này phạm tội cần đánh giá bị cáo là người có nhân thân xấu nên cần có mức án nghiêm khắc, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn một thời gian tại cơ sở giam giữ đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

+ Về áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo:

[11] Xét bị cáo không có tài sản riêng, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

+ Về xử lý vật chứng:

[12] Do chất ma túy là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên căn cứ vào khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy tang vật gồm 01 bì giấy dấu niêm phong số 406MT/PC09; tịch thu số tiền 200.000 (hai trăm nghìn) đ ồng do bị cáo bán ma túy cho Nguyễn Văn M vào ngày 23/6/2021 để nộp vào ngân sách nhà nước theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 14 tháng 9 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Buộc bị cáo phải nộp lại số tiền 400.000 (bốn trăm nghìn) đồng do bị cáo bán ma túy cho Nguyễn Văn M ngày 21/6/2021 và ngày 22/6/2021 để nộp vào ngân sách nhà nước.

- Các vấn đề Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[13] Trong vụ án này, Nguyễn Văn M đã mua ma túy của bị cáo để sử dụng cho bản thân, nhưng do ma túy không đủ lượng, nhân thân M có 01 tiền án về tội Mua bán trái phép chất ma túy đã được xóa án tích, nên hành vi cất giữ trái phép chất ma túy của M không cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Công an quận Ngô Quyền ra quyết định xử phạt hành chính đối với M về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

[14] Đối với người phụ nữ tên “Vân” bán ma túy cho bị cáo, quá trình đi ều tra không làm rõ được lai lịch, địa chỉ, nên không có cơ sở để xử lý.

- Về án phí:

[15] Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo:

[16] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm b, i khoản 2 Điều 251; điểm o, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Dương Ngọc Đ 08 (tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ ngày 23 tháng 6 năm 2021.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy tang vật gồm 01 bì giấy dấu niêm phong số 406MT/PC09; tịch thu số tiền 200.000 (hai trăm nghìn) đồng để nộp vào ngân sách nhà nước theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 14 tháng 9 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Buộc bị cáo phải nộp lại số tiền 400.000 (bốn trăm nghìn) đồng do bị cáo bán ma túy cho Nguyễn Văn M ngày 21/6/2021 và ngày 22/6/2021 để nộp vào ngân sách nhà nước.

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo Dương Ngọc Đ được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 159/2021/HS-ST ngày 27/09/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:159/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về