Bản án 159/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 159/2019/HS-ST NGÀY 12/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 11 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 157/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 157/2019/QĐXXST-HS ngày 28/10/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn Kh, tên gọi khác: Không; sinh ngày 25/6/1991 tại thảnh phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; nơi DKHKTT và chỗ ở: Tổ 2, khu 1, phường Cửa Ô, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N; nghề nghiệp: Lao đông tự do; trình độ văn hóa: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn Bình và con bà Trần Thị Ngoan; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 08/4/2009, bị Tòa án nhân dân thị xã Cẩm Phả (nay là thành phố Cấm Phả) xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 23 tháng 10 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm về tội: “Cưỡng đoạt tài sản”, ngày 02/12/2015, bị Công an thành phố Cẩm Phả phạt tiền 2.500.000 đồng về hành vi vi phạm hành chính: cất giấu trong phương tiện giao thông các loại công cụ phương tiện dùng trong sinh hoạt nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích; bị bắt quả tang ngày 21/6/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Cẩm Phả, có mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Như M, sinh năm 1953; trú tại: Tổ 4, khu 2, phường Mông Dương, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

2. Ông Trần Văn Th, sinh năm 1960; trú tại: Tổ 1, khu Diêm Th, phường Cẩm B, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N.

3. Anh Vũ Thế N, sinh năm 1977; trú tại: Tổ 4, khu 1, phường Cửa Ô, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N.

(Những người làm chứng đều vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 20 giờ 45 phút, ngày 21/6/2019, tại khu vực đường dân sinh thuộc tổ 4, khu 1, phường Cửa Ô, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N, Công an thành phố Cẩm Phả phát hiện và bắt quả tang Trần Văn Kh có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ của Kh: Thu trên tay trái Kh 01 túi nilon màu trắng, kích thước (1,7x2,5)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, lắp 02 sim số 039.362.2627 và 035.396.0231; 01 ví giả da màu đen, bên trong có số tiền 750.000 đồng.

Kết luận giám định số: 584/GĐMT ngày 25/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng thu giữ của Trần Văn Kh là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng là: 0,182 gam (Không phẩy một trăm tám mươi hai gam).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn Kh khai nhận: Bị cáo sử dụng ma túy đá từ năm 2014 đến nay. Khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 21/6/2019, Quỳnh gọi điện nhờ bị cáo mua hộ 300.000 đồng ma túy đá để về cả hai cùng sử dụng, bị cáo đồng ý. Sau đó, bị cáo đi bộ đến nhà Ninh (thường gọi là Ninh Hoán) ở phường Cửa Ông mua 01 túi ma túy đá giá 300.000 đồng. Trên đường đi bộ về gặp Quỳnh, thì bị cáo bị Công an thành phố Cẩm Phả kiểm tra, phát hiện và thu giữ vật chứng gồm: 01 túi ma túy; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, lắp 02 sim số 039.362.2627 và số 035.396.0231; 01 ví giả da màu đen, bên trong có số tiền 750.000 đồng. Ngoài ra, bị cáo còn khai: Trước đó, đã hai lần Quỳnh đưa tiền cho bị cáo đi mua ma túy đá, mỗi lần 01 túi 300.000 đồng và mang về để bị cáo và Quỳnh cùng sử dụng hết. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố đối với bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, không oan.

Người làm chứng ông Nguyễn Như Minh và ông Trần Văn Thường có lời khai tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của nhau, thể hiện việc ông Nguyễn Như Minh và ông Trần Văn Thường là người được chứng kiến Công an thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh kiểm tra, thu giữ vật chứng đối với Trần Văn Kh đúng như Trần Văn Kh đã khai như nêu trên.

Bản cáo trạng số: 153/CT-VKSCP ngày 07/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố bị cáo Trần Văn Kh về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trần Văn Kh về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt: Trần Văn Kh từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt quả tang 21/6/2019; không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a, c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c Khoản 2 và điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0, 12 gam Methamphetamine còn hoàn lại sau giám định, đựng trong phong bì niêm phong số: 584/GĐMT; tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, lắp 02 sim số 039.362.2627 và 035.396.0231; trả lại bị cáo Trần Văn Kh 01 ví giả da màu đen và 750.000 đồng.

Tại phần tranh luận, bị cáo Trần Văn Kh không tranh luận vấn đề gì với quan điểm luận tội của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả. Bị cáo Trần Văn Kh thấy ân hận với hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo cải tạo tốt, thành người có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cẩm Phả, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn Kh và những người làm chứng trong vụ án, đều không ai có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với những người làm chứng trong vụ án, đều đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Xét thấy quá trình điều tra họ đã có lời khai lưu tại hồ sơ vụ án nên việc vắng mặt của họ không gây trở ngại cho việc xét xử. Căn cứ vào Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vấn tiến hành xét xử, chủ tọa phiên tòa công bố lời khai của họ tại phiên tòa.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo Trần Văn Kh: Tại phiên tòa bị cáo Trần Văn Kh khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng ông Nguyễn Như Minh, ông Trần Văn Thường và còn phù hợp với các chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Cẩm Phả lập hồi 21 giờ ngày 21/6/2019 (bút lục 29, 30); bản ảnh vật chứng (bút lục 31); biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ vào hồi 22 giờ 05 phút ngày 21/6/2019 (bút lục 32); bản kết luận giám định số: 584/GĐMT ngày 25/6/2019 của Phòng kỹ thật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh (bút lục 26); biên bản kiểm tra điện thoại thu giữ của Trần Văn Kh vào hồi 22 giờ 20 phút ngày 21/6/2019 (bút lục 33) cùng với các tài liệu khác cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hồi 20 giờ 45 phút, ngày 21/6/2019, tại khu vực đường dân sinh thuộc tổ 4, khu 1, phường Cửa Ô, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N, Công an thành phố Cẩm Phả phát hiện và bắt quả tang Trần Văn Kh có hành vi tàng trữ trái phép 0,182 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng. Hành vi của Trần Văn Kh đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự vói tình tiết c)...,..., Methamphetamine,... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;...”. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố đối với bị cáo Trần Văn Kh là có căn cứ nên chấp nhận toàn bộ lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo Trần Văn Kh.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo Trần Văn Kh đã vi phạm chế độ quản lý chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Tệ nạn mua bán và sử dụng ma túy hiện nay vẫn đang có chiều hướng gia tăng với nhiều hình thức thủ đoạn rất tinh vi, nguy hiểm trong khi Nhà nước ta đã và đang đề ra nhiều giải pháp, mở rất nhiều đợt tấn công truy quét và xử lý rất nghiêm khắc đối với tội phạm về ma túy, hành vi mua ma tuý để sử dụng của bị cáo đã tiếp tay cho các đối tượng buôn bán ma tuý lớn hoạt động và còn là nguyên nhân phát sinh ra nhiều loại tội phạm hình sự nguy hiểm khác. Bị cáo Trần Văn Kh là người đã trưởng thành, nhận thức được việc làm của mình là vi phạm pháp luật nhưng do ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo kém, thiếu ý thức rèn luyện bản thân, đua đòi sử dụng ma tuý nên bị cáo đã bất chấp sự ngăn cấm của pháp luật mua ma túy để sử dụng như đã nêu trên. Việc bị cáo bị phát hiện bắt quả tang là ngoài ý muốn của bị cáo nên cần phải xử phạt bị cáo thật nghiêm trước pháp luật.

[5] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Trần Văn Kh thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và tuy không có tiền án tiền sự nhưng có nhân thân xấu như nêu trên, bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân, sử dụng ma túy từ năm 2014 đến nay; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật. Nhưng dù có xem xét đến đâu thì việc bắt bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian là cần thiết để cải tạo giáo dục bị cáo và góp phần phòng chống tội phạm nói chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo Trần Văn Kh là người sử dụng ma túy nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[7] Về vật chứng của vụ án: Quá trình kiểm tra bắt quả tang đối với Trần Văn Kh, đã thu giữ số vật chứng như nêu trên. Đối với số ma tuý gửi giám định còn hoàn lại 0,12 gam Methamphetamine đựng trong phong bì niêm phong số: 584/GĐMT, đây là vật cấm lưu hành nên tuyên tịch thu tiêu hủy; đối với số tiền 750.000 đồng và 01 ví giả da màu đen, quá trình điều tra xác định là tài sản của bị cáo Trần Văn Kh không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên tuyên trả lại cho bị cáo; đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, lắp 02 sim số 039.362.2627 và 035.396.0231, theo bị cáo khai: Quỳnh đã gọi điện cho bị cáo bảo đi mua ma túy về để cả hai cùng sử dụng nên tuyên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[8] Đối với: Người thanh niên tên Quỳnh, theo lời khai của bị cáo Trần Văn Kh: Khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 21/6/2019, Quỳnh gọi điện nhờ bị cáo mua hộ 300.000 đồng ma túy đá để về cả hai cùng sử dụng và trước đó, đã hai lần Quỳnh đưa tiền cho bị cáo đi mua ma túy đá, mỗi lần 01 túi 300.000 đồng để bị cáo và Quỳnh cùng sử dụng nhưng do không có thông tin cụ thể về lai lịch, nhân thân nên không có cơ sở để xác minh làm rõ.

Căn cứ lời khai của bị cáo Trần Văn Kh: Ngày 21/6/2019, sau khi bị cáo nghe điện thoại của Quỳnh với nội dung nhờ bị cáo mua hộ 300.000 đồng ma túy đá để về cả hai cùng sử dụng, bị cáo đi bộ đến nhà Ninh (thường gọi là Ninh Hoán) ở phường Cửa Ô, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N mua 01 túi ma túy đá giá 300.000 đồng. Trên đường đi bộ về để gặp Quỳnh thì bị cáo bị Công an thành phố Cẩm Phả kiểm tra, phát hiện và thu giữ vật chứng. Cơ quan điều tra tiến hành xác minh tại phường Cửa Ông người có tên Ninh (thường gọi là Ninh Hoán), đã xác định là Vũ Thế Ninh, sinh năm 1977; trú tại tổ 4, khu 1, phường Cửa Ô, thành phố Cẩm P, tỉnh Quảng N. Nhưng Vũ Thế Ninh khai ngày 21/6/2019, Ninh không bán ma túy cho ai và cũng không có ai đến nhà gọi.

[9] Về án phí: Bị cáo Trần Văn Kh phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Văn Kh có quyền kháng cáo theo quy định tại các Điều 331 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn Kh phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Xử phạt: Trần Văn Kh 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 21/6/2019.

Căn cứ: Điểm a, c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a, c Khoản 2 và điểm a Khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 0,12 gam Methamphetamine, đựng trong phong bì còn nguyên niêm phong số: 584/GĐMT;

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia vỏ màu đen, model: RM- 1110 kèm 02 sim, 01 pin; điện thoại đã cũ, đã qua sử dụng;

Trả lại bị cáo Trần Văn Kh 750.000 đồng (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng) và 01 ví giả da màu đen, đã qua sử dụng.

(Tiền và vật chứng tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số: 19/BB-THA ngày 14/10/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả).

Áp dụng: Khoản 2 Điều 136; Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Trần Văn Kh phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 159/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:159/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:12/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về