Bản án 159/2018/HNGĐ-ST ngày 31/07/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI NƯỚC, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 159/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 31 tháng 7 năm 2018 tại Tòa án nhân dân huyện Cái Nước xét  xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 256/2018/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 5 năm 2018 về việc “Tranh chấp xin ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 198/2018/QĐXXST –HNGĐ ngày 14 tháng 6 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1981 (Có mặt)

Địa chỉ cư trú: Ấp NTA, xã ĐH, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

Bị đơn: Anh Bùi Văn L, sinh năm 1964 (Vắng mặt)

Địa chỉ cư trú: Ấp NTA, xã ĐH, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 15/5/2018 và tại phiên tòa, chị Nguyễn Thị M là nguyên đơn trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh L sống chung với nhau vào năm 2001, không có đăng ký kết hôn. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng đến năm2016 thì phát sinh mâu thuẫn và sống ly thân từ đó cho đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cự cải nhau, anh L có hành động đánh đập chị, gia đình hai bên có hàn gắn nhiều lần nhưng không thành. Xét thấy cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc nên chị yêu cầu được ly hôn với anh L.

Về con chung: Chị M và anh L có một con chung tên là Bùi Kim N, sinh ngày 02/10/2003, hiện con đang sống với anh L. Sau khi ly hôn chị yêu cầu giao cho anh L nuôi con, chị không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị M và anh L tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị M và anh L tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản hòa giải ngày 14/6/2018, anh Bùi Văn L trình bày:

Về hôn nhân: Anh thống nhất với lời trình bày của chị M về thời gian kết hôn, về việc không có đăng ký kết hôn, về thời gian phát sinh mâu thuẫn vànguyên nhân phát sinh mâu thuẫn, nhưng anh vẫn còn thương vợ nên khôngđồng ý ly hôn với chị M.

Về con chung: Anh L và chị M có một con chung tên là Bùi Kim N sinh ngày 02/10/2003, hiện con đang sống với anh. Sau khi ly hôn anh yêu cầu con theo ai người đó nuôi, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Anh và chị M tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Anh và chị M tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra. Tòa án nhận định:

[1] Tranh chấp giữa chị Nguyễn Thị M và anh Bùi Văn L là tranh chấp về Hôn nhân và gia đình về việc xin ly hôn, nuôi con chung thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Anh Bùi Văn L có địa chỉ cư trú tại ấp NTA, xã ĐH, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Cái Nước thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Nhận định của Tòa án về nội dung tranh chấp của vụ án:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị M và anh Bùi Văn L sống chung với nhau vào năm 2001, không đăng ký kết hôn nên đây là hôn nhân không hợp pháp, không được pháp luật thừa nhận và bảo vệ theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình thì chị Nguyễn Thị M có quyền yêu cầu giải quyết việc ly hôn. Yêu cầu của chị M đã được Tòa án nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau thụ lý giải quyết theo quy định tại Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình và pháp luật tố tụng dân sự. Sau khithụ lý giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Cái Nước tiến hành thủ tục hòa giải theo quy định tại Điều 54 Luật hôn nhân và gia đình. Nhưng do chị M và anh L không có đăng ký kết hôn nên Tòa án nhân dân huyện Cái Nước căn cứ vào Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung. Hội đồng xét xử xét thấy, giữa chị M và anh L phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, anh L có hành động đánh đập chị, hai bên gia đình có hàn gắn nhiều lần nhưng không thành, chị M và anh L đã có thời gian ly thân dài. Anh L yêu cầu được đoàn tụ với chị M nhưng do mâu thuẫn của chị M và anh L đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận cho chị M được ly hôn với anh L là phù hợp.

Về nuôi dưỡng con chung: Chị M và anh L có một con chung tên Bùi Kim N sinh ngày 02/10/2003, hiện nay đang sống với anh L. Sau khi ly hôn, chị yêu cầu giao con cho anh L nuôi, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, cháu N hiện đang sống với anh L và cuộc sống đã ổn định về mọi mặt. Hơn nữa, theo kết quả xác minh của Tòa án thì hiện nay cháu N đang sinh sống với anh L ở tỉnh Bình Dương nhưng không xác định được địa chỉ cụ thể nên Tòa án không thể tiến hành ghi lời khai của cháu N về việc có nguyện vọng sống chung với cha hay mẹ sau khi Tòa án giải quyết cho ly hôn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu N cho anh L nuôi dưỡng, chị M không phải cấp dưỡng nuôi con là phù hợp theo quy định tại Điều 81 và 82 Luật hôn nhân và gia đình.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về tài sản chung: Chị M và anh L thống nhất tự thỏa thuận nên không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.

Về nợ chung: Chị M và anh L thống nhất tự thỏa thuận nên không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.

Nếu sau này giữa chị M và anh L có phát sinh tranh chấp về việc nuôi con chung, tài sản chung và nợ chung thì có quyền khởi kiện thành một vụ kiện khác.

[3] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Buộc chị Miền phải chịu theo quy định.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 266, 271 và 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 9, 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giãm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ giữa chị Nguyễn Thị M và anhBùi Văn L là vợ chồng.

Về con chung: Giao cháu Bùi Kim N, sinh ngày 02/10/2003 cho anh Bùi Văn L nuôi dưỡng, chị M không phải cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Buộc chị Nguyễn Thị M phải chịu số tiền là 300.000 đồng, được đối trừ số tiền chị M nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0004446 ngày 21/5/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cái Nước.

Trong trường hợp Bản án (Quyết định) được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được Thi hành án dân sự, người phải Thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật Thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai, chị Nguyễn Thị M có quyền kháng cáo bản ántrong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Bùi Văn L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 159/2018/HNGĐ-ST ngày 31/07/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:159/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Nước - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về