Bản án 159/2017/HSST ngày 29/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 159/2017/HSST NGÀY 29/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện VH, tỉnh Sơn La xét xử lưu động sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 163/2017/HSST ngày 14 tháng 9 năm 2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:190/2017/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 9 năm 2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H, sinh năm 1966 tại GB, Bắc Ninh; nơi ĐKNKTT: Ấp BC, xã TL, huyện XM, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu; nghề ngH: Trồng trọt; trình độ văn hóa: 7/10; dân tộc: kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tn giáo; Không; Đảng, đoàn thể: Không; con ông Nguyễn Văn B và bà Đoàn Thị B (đều đã chết); có vợ là Trịnh Thị N và có 03 con (con lớn sinh năm 1989, con nhỏ sinh năm 1991); Tiền sự: Không; Có 01 tiền án: Bản án số 208/2006-HSST ngày 25/8/2006 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã xử phạt Nguyễn Văn H 10 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/02/2017, có mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Nguyễn Văn H bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La truy tố vềhành vi phạm tội như sau:

Hồi 23 giờ 00 phút ngày 09/02/2017, Tổ công tác Công an huyện VH, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực bản CC, xã LL, huyện VH, tỉnh Sơn La, đã phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Văn H (Trú tại: Ấp BC, xã TL, huyện XM, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu) đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói nilon bên trong có chứa chất bột màu trắng (H khai là Hêrôin), 02 chiếc điện thoại di động, 300.000 đồng và một số giấy tờ của Nguyễn Văn H.

Ngày 10/02/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện VH thành lập Hội đồng mở niêm phong, cân tịnh xác định trọng lượng, lấy mẫu trưng cầu giám định: 01 gói nilon bên trong chứa chất bột màu trắng có trọng lượng 80,46 gam, trích 1,2 gam ký hiệu H1 để giám định chất ma túy

Tại Kết luận giám định số 239/KLMT ngày 13/02/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “01 mẫu gửi giám định ký hiệu H1 là chất ma túy, loại chất Hêrôin. Trọng lượng chất ma túy thu giữ được là 80,46 gam, loại chất Hêrôin”

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn H khai nhận:

Ngày 02/02/2017, H từ nhà đi ra Hà Nội, đến ngày 08/02/2017, H đi xe khách từ Hà Nội lên huyện VH, Sơn La, tìm mua ma túy sử dụng. Trên xe H quen một người đàn ông (tự giới thiệu tên là Chiến), H hỏi Chiến có biết chỗ nào bán ma túy không để H liên hệ mua. Chiến chỉ đường cho H đến bản CT, LL, VH tìmngười đàn ông dân tộc Mông tên là T thì sẽ mua được ma túy. Khi đi đến ngã bađường vào bản CT, xã LL, huyện VH, H xuống xe đi bộ và hỏi đường với người dân sở tại thì tìm được nhà người đàn ông tên T. Khi gặp T, H hỏi mua40.000.000 đồng Hêrôin, T đồng ý, nhận tiền và sau đó vào buồng lấy ra đưa choH một gói bên ngoài được gói bằng nilon màu trắng và nói là Hêrôin trị giá40.000.000 đồng. Sau đó, T hướng dẫn H cất dấu gói Hêrôin vào trong vỏ hộp sữa hiệu NesTé Milo rồi dùng xe máy chở H ra Quốc lộ 6 để đón xe khách về Hà Nội. Khi H đang đứng đợi xe khách tại bản CC, LL, VH thì bị lực lượng chức năng tới kiểm tra, phát hiện và bắt giữ cùng vật chứng.

Tại Cáo trạng số 828/VKS-P1 ngày 13/9/2017, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theođiểm b khoản 3 Điều 194 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáovề tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; áp dụng Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; Điều 249 Bộ luật hình sự 2015: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 15 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/02/2017; Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Văn H nhận tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo.

XÉT THẤY

Lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với nội dung bản Cáo trạng, đã thể hiện: Do nghiện chất ma túy nên 09/02/2017, Nguyễn Văn H đã đến bản CT, xã Lóng Lông, huyện VH, tỉnh Sơn La để tìm mua ma túy sử dụng. Bị cáo đã muađược 01 gói ma túy của một người đàn ông tên T với giá 40.000.000đ. Sau khi mua được ma túy bị cáo ra đường Quốc lộ 6 để đón xe khách đi về Hà Nội thì bị phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng. Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau:

- Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện VH lập hồi 23 giờ ngày 09/02/2017 đối với Nguyễn Văn H tại bản CC, xã LL, huyện VH, tỉnh Sơn La;

- Kết luận giám định số 239/KLMT ngày 13/02/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “01 mẫu gửi giám định ký hiệu H1 là chất ma túy, loại chất Hêrôin. Trọng lượng chất ma túy thu giữ được là 80,46 gam, loại chất Hêrôin”

- Lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ vụ án.

Từ các căn cứ như đã nêu trên đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết định khung hình phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H đã có hành vi tàng trữ trái phép 80,46 gam Hêrôin, đã vi phạm tình tiết “Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ ba mươi gam đến dưới một trăm gam” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999 có khung hình phạt từ mười lăm năm đến hai mươi lăm.

Tuy nhiên, so sánh mức hình phạt về tội tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999 với hình phạt quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 (đã được sửa đổi bổ sung và có hiệu lực từ ngày 01/01/2018), thì hành vi trên của Nguyễn Văn H đã vi phạm vào điểm b khoản 3 Điều 249 có mức hình phạt tù từ 10 đến 15 năm (có mức hình phạt nhẹ hơn). Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốchội và khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự 2015, cần áp dụng mức hình phạt trong Bộ luật Hình sự 2015 là quy định có lợi hơn cho bị cáo.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây nguy hại lớn cho xã hội. Năm 2006, Nguyễn Văn H đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt 10 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, sau khi chấp hành xong hình phạt, trở về địa phương không chịu tu dưỡng, rèn luyện, mà lại tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng, nên đã vi phạm vào tình tiết tăng nặng “tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Dođó, đối với bị cáo cần có mức hình phạt nghiêm khắc để răn đe giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

Về hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự: Xét bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, không có điều kiện thi hành, nên không áp dụng.

Đối với người liên quan:

Đối với người đàn ông tên T, khoảng 37 tuổi, trú tại CT, LL, VH, Sơn La Nguyễn Văn H khai là người bán ma túy cho H. Quá trình điều tra, xác minh tại bản CT, VH, Sơn La chỉ có duy nhất một người tên là Sồng A T, sinh năm 1957, Cơ quan điều tra đã nhiều lần triệu tập Sồng A T để đấu tranh nhưng T không có mặt nên không đấu tranh làm rõ được. Cơ quan cảnh sát điều tra đã lập hồ sơ quản lý đối tượng Sồng A T, khi có đủ căn cứ sẽ làm rõ về hành vi liên quan đến vụ án.

Đối với người đàn ông tên Chiến, người đã chỉ nhà T cho H vào mua ma túy nhưng do H không biết họ tên, địa chỉ cụ thể của người này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra làm rõ.

Về vật chứng của vụ án:

Đối với 79,26 gam Hêrôin còn lại sau khi đã giám định, xét đây là loạihàng Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với một chiếc Ba lô màu đỏ - đen thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn H,xét đây là đồ vật bị cáo dùng để cất giấu chất ma túy, cần tịch thu tiêu hủy;

Đối với hai chiếc điện thoại di động, một chứng minh nhân dân và một thẻ bảo hiểm y tế mang tên Nguyễn Văn H, xét không liên quan đến vụ án, cần trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn H.

Đối với 300.000 đồng thu giữ trong vụ án, là tiền của bị cáo đem theo sử dụng cá nhân, không liên quan đến hành vi phạm tội, nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Về án phí:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

1. Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự 1999; điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị Quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7, điểm b khoản 3Điều 249 Bộ luật hình sự 2015: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 15 (mười lăm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/02/2017; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì thư do Công an huyện VH phát hành, còn nguyên niêm phong, mặt trước có ghi: “Vật chứng còn lại ký hiệu H, trọng lượng 79,26g + Vỏ gói niêm phong ban đầu vụ Nguyễn Văn H SN 1966. HKTT: Ấp BC, xã TL, huyện XM, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu. Hành vi: Tàng trữ TPCMT. Bắt ngày 09/02/2017”. (Theo kết luận giám định số 239/KLMT ngày13/02/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận mẫu vật gửi giám định ký hiệu H1 là chất ma túy, loại chất Hêrôin. Trọng lượng của mẫu gửi h=giám định là 1,2 gam; Tổng trọng lượng chất ma túy thu giữ được là 80,46 gam, loại chất Hêrôin). Mặt sau phong bì tại mép giáp lai có chữ ký của thành phần tham gia niêm phong, điểm chỉ của đối tượng bị bắt và 03 dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT - Công an huyện VH; 01 (một) chiếc Ba lô màu đỏ đen đã qua sử dụng cũ.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn H: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia vỏ màu vàng đã qua sử dụng, model 6300; type RM – 217, không có sim, không có thẻ nhớ; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Kechaoda - K77 vỏ màu đen viền trắng đã qua sử dụng, có 2 Imei: Imei 1 có 4 số cuối là 6552, Imei 2 có 4 số cuối là 6560, có kèm 02 sim trong máy; 01 chiếc chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Văn H do Công an tỉn Bà Rịa - Vũng Tàu cấp ngày 18/3/2014;01 một thẻ bảo hiểm y tế mang tên Nguyễn Văn H, do BHXH tỉnh Bà Rịa - VũngTàu cấp ngày 23/11/2016.

- Tạm giữ để đảm bảo thi hành án: 300.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

(Tên, số lượng, khối lượng, đặc điểm, tình trạng của vật chứng, tài sản, theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Sơn La với Cục thi hành án dân sự tỉnh Sơn La).

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 29/9/2017).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

369
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 159/2017/HSST ngày 29/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:159/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về