Bản án 159/2017/HS-ST ngày 14/07/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ RẠCH GIÁ, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 159/2017/HS-ST NGÀY 14/07/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 14 tháng 7 năm 2017 tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Rạch Giá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 124/2017/HSST ngày 26/5/2017 đối với bị cáo:

T – Sinh năm: 1982, tại Rạch Giá Kiên Giang. Nơi ĐKHKTT: Số 15/4/6 T, phường V, Tp. G, tỉnh Kiên Giang. Chổ ở: Ấp C, xã T, huyện T, tỉnh Kiên Giang. Số CMND 371.548.201; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 3/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông T1 và bà T2; Tiền sự: Chưa; Tiền án: Chưa. Bị cáo bị bắt ngày 04/01/2017. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an Thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang

Bị cáo có mặt tại phiên tòa

* Những người làm chứng:

1/- Ông A – Sinh năm: 1996. (Vắng mặt)

Trú tại: Số 238 T, phường S, Tp. G, tỉnh Kiên Giang.

2/- Ông V – Sinh năm: 1989. (Vắng mặt)

Trú tại: Số 71 Đ, phường S, thàng phố . G, tỉnh Kiên

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

T là người nghiện ma túy (hàng đá). Để có tiền mua ma túy sử dụng, T đã mua ma túy của một người bạn tên Thái ở huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang (chưa rõ tên thật, địa chỉ) với số tiền mỗi lần mua là từ 700.000 đến 1.000.000 đồng, sau đó đem về phân nhỏ vừa sử dụng vừa bán lại cho người nghiện kiếm lời. Phương thức bán ma túy là khi có người nghiện điện thoại di động đến hỏi mua ma túy thì T hẹn địa điểm, sau đó đến giao ma túy và nhận tiền. Bằng thủ đoạn như vậy, T đã nhiều lần bán ma túy cho người nghiện ở thành phố Rạch Giá, cụ thể như sau:

Trong tháng 12 năm 2016, T đã bán ma túy cho A, tổng cộng 05 lần là 05 bịch ma túy, mỗi lần bán thấp nhất số tiền là 200.000 đồng và cao nhất số tiền là 500.000 đồng, tổng cộng là 1.600.000 đồng. Địa điểm giao ma túy là tại khu vực bến đò Cống Hòa Hưng, thuộc phường Rạch Sỏi, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Mỗi lấn bán ma túy cho A thì T có xin thêm tiền đi xe ôm và được A cho 04 lần mỗi lần là 20.000 đồng. Trước lúc bị bắt quả tang, cũng trong tháng 12 năm 2016 tại khu vực bến đò Cống Hòa Hưng, thuộc phường Rạch Sỏi, thành phố Rạch Giá, T đã bán ma túy cho Đoàn Hùng Vui, tổng cộng 03 lần là 03 bịch ma túy, với tổng số tiền là 900.000 đồng. Mỗi lấn bán ma túy cho V thì T có xin thêm tiền đi xe ôm và được V cho 02 lần mỗi lần là 20.000 đồng.

Đến khoảng 10 giờ 30 ngày 04/01/2017, V tiếp tục điện thoại cho T hỏi mua ma túy đá với giá 500.000 đồng để sử dụng thì T đồng bán và hẹn địa điểm giao ma túy trên đường Nguyễn Ch Thanh, phường Rạch Sỏi, thành phố Rạch Giá. Sau đó, T đem 01 đoạn ống nhựa chứa chất ma túy bên trong xuống điểm hẹn giao cho V và lấy 500.000 đồng thì bị công an phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

* Vật chứng thu được:

- 01 (một) ống nhựa trong suốt được hàn k n hai đầu, bên trong có chứa nhiều hạt tinh thể trong suốt đã được niêm phong vào trong phong bì màu trắng.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đỏ, số Imei: 355476/05/97473917, đã qua sử dụng.

- Tiền Việt Nam 3.120.000 đồng (ba triệu một trăm hai chục ngàn đồng - trong đó tiền thu lúc bắt quả tang là 300.000 đồng và 2.820.000 đồng do bị can giao nộp số tiền do phạm tội mà có).

* Tại bản kết luận giám định số 08/KL-KTHS ngày 09 tháng 01 năm 2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kiên Giang kết luận chất ma túy thu giữ khi bắt quả tang như sau:

- Các hạt tinh thể trong suốt chứa trong một đoạn ống nhựa trong suốt hàn k n hai đầu được niêm phong gửi đi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, trọng lượng 0,0575 gam.

Tại bản Cáo trạng số: 136/KSĐT – TA ngày 26/5/2017 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Rạch Giá đã truy tố bị cáo T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo điểm b khoản 2 Điều 194 BLHS;

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Vì mục đ ch muốn có tiền mua ma túy để sử dụng nên trong tháng 12 năm 2016 T đã bán trái phép chất ma túy (hàng đá) cho những người nghiện như A và V tổng cộng 08 lần là 08 bịch ma túy với tổng số tiền thu lợi là 2.620.000 đồng. Đến ngày 04/01/2017, T tiếp tục bán cho V 01 đoạn ống nhựa chứa chất ma túy bên trong với số tiền là 500.000 đồng thì bị công an bắt quả tang. Qua kết quả giám định số ma túy thu giữ là chất ma túy, loại Methamphetamine, trọng lượng 0,0575 gam. Do đó, Viện kiểm sát quyết định giữ nguyên quyết định truy tố đối với T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo biết được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là pháp luật nước ta nghiêm cấm, mà bất kỳ ai có hành vi xâm phạm điều bị xử l nghiêm minh, chỉ vì nhu cầu sử dụng cho thỏa mãn cơn nghiện mà bị cáo bất chấp lao vào con đường phạm tội, vì vậy, cần xử l bị cáo mức án nghiêm để răn đe. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện khai ra lần phạm tội trước mà cơ quan Công an chưa phát hiện, bản thân là những người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự...Đề nghị HĐXX áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194, điểm o và p khoản 1, 2 Điều 46, Điều 47 và Điều 33 BLHS xử phạt bị cáo Phan Văn Trạng mức án từ 04năm 06 tháng đến 05 năm tù

* Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 41 BLHS và Điều 76 BLTTHS, tuyên:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi "Niêm phong mẫu vật vụ số 08/2017" có chữ k của giám định viên Lê Đức Huy, người chứng kiến Trần Du Học.

+ Tịch thu sung quỹ nhà nước:

- Tiền Việt Nam 3.120.000 đồng (Tiền do phạm tội mà có)

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia, số Imei: 355476/05/974773917, là phương tiện dùng vào việc phạm tội.

Theo lệnh nhập kho vật chứng số 80/LNK ngày 14/4/2017 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Rạch Giá.

Bị cáo T nói lời nói sau cùng: Thưa HĐXX bị cáo biết hành vi phạm tội của mình là sai trái, bị cáo rất ân hận, xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau: [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Rạch Giá, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiền hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hội đồng xét xử xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo đã phù hợp với nội dung Cáo trạng, kết luận điều tra, lời khai người bị hại và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận: Hành vi phạm tội của bị cáo T đã phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy ", tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 BLHS.

Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá, truy tố bị cáo theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.

 [3] Xét tính chất mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thưc được hành vi "Mua bán trái phép chất ma túy " là pháp luật nghiêm cấm, là vi phạm pháp luật. Như chúng ta đã biết ma tu là loại độc dược gây nghiện do Nhà nước độc quyền quản lý , nghiêm cấm mọi hoạt động tàng trữ, vận chuyển, sử dụng và mua bán trái phép chất ma túy. Ma túy, chỉ được dùng trong y học và kiểm nghiệm và việc sử dụng các chất ma túy rất hạn chế và phải được sự cho phép nhà nước ta, bất kỳ ai có hành vi xâm phạm điều bị xử lý nghiêm minh. Chỉ vì nhu cầu sử dụng chất ma túy cũng như muốn có tiền tiêu xài, không cần phải lao động chân chính bằng ch nh khả năng sức lao động của mình, từ đó bị cáo đã bất chất tất cả lao vào con đường phạm tội để rồi bị cáo nhận lấy sự trừng trị nghiêm minh của pháp luật. Ma tuý đã tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, hay nói cách khác, tệ nạn ma tu đã trở thành thảm họa chung của nhân loại, nó gây tác hại nhiều mặt về kinh tế - xã hội, sức khỏe, đạo đức, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội và an ninh Quốc Gia, đồng thời còn làm tăng thêm nhiều loại tội phạm và là cầu nối lan truyền căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS. Bên cạnh, nó còn để lại hậu quả nghiêm trọng cho thế hệ trẻ về sau.

Xét tính chất mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, bị cáo thực hiện tội phạm có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện với lỗi cố trực tiếp. Vì vậy, đứng trước phiên tòa hôm nay bị cáo phải hoàn toàn chịu trách nhiệm hình sự về những gì bị cáo đã gây nên, HĐXX nghĩ cần tuyên cho bị cáo mức án thật nghiêm, mới tương xứng với chất hậu quả mà bị cáo đã gây nên, đồng thời cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ t nh cải tạo giáo dục các bị cáo sống trở nên tốt, có ch cho gia đình và cho xã hội đồng thời mang t nh răn đe đối với loại tội phạm này

[4] Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

[5] Xét về tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tự nguyện khai ra lần phạm tội trước mà cơ quan Công an điều tra chưa phát hiện, bản thân các bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, hoàn cảnh có khó khăn…Do đó, cần cho các hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại các điểm o và p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47 BLHS cho bị cáo.

 [6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ tại các điểm o và p khoản 1, khoản 2 Điều 46 và Điều 47 BLHS làm tình tiết giảm nhẹ thêm cho bị cáo là phù hợp như HĐXX nhận định trên. Tuy nhiên, mức án mà Viện sát đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo như trên là chưa tương xứng so với hành vi phạm tội của bị cáo, trong vụ án này ngoài lần bị bắt quả tang bị cáo còn bán 08 lần 08 bọc ma túy cho các con nghiện nữa, tổng số tiền bán ma túy hơn 3 triệu đồng. Vì vậy, cần tăng nặng hình phạt cao hơn mức án mà Viện đã đề nghị để có thời gian giáo dục răn đe bị cáo cũng như phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này là cần thiết.

[8] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 194 BLHS quy định"Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng...cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một đến năm năm". Hội đồng xét xử xét thấy hoàn cảnh kinh tế của bị cáo đang gặp rất nhiều khó khăn và bản thân không có nghề nghiệp gì ổn định nên miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về xử l vật chứng: Áp dụng Điều 41 BLHS và Điều 76 BLTTHS

+ Tịch thu tiêu hủy: Đối với 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi "Niêm phong mẫu vật vụ số 08/2017" có chữ k của giám định viên Lê Đức Huy, người chứng kiến Trần Du Học là vật chứng vụ án nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy là cần thiết

+ Tịch thu sung quỹ nhà nước: Đối với số Tiền Việt Nam 3.120.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Nokia, số Imei: 355476/05/974773917, là phương tiện dùng vào việc phạm tội và do phạm tội mà có nên cần tuyên tịch thu sung quỹ nhà nước là phù hợp.

Theo quyết định chuyển giao vật chứng số 62/QĐ-CGVC ngày 26/5/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá.

 [10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 199 BLTTHS và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về án ph lệ ph Tòa án.

Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

- Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 194, điểm o và p khoản 1, 2 Điều 46, Điều 47 và Điều 33 BLHS.

* Xử phạt

Bị cáo T 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo (Ngày 04/01/2017).

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 BLHS và Điều 76 BLTTHS, tuyên:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi "Niêm phong mẫu vật vụ số 08/2017" có chữ k của giám định viên Lê Đức Huy, người chứng kiến Trần Du Học.

+ Tịch thu sung quỹ nhà nước:

- Tiền Việt Nam 3.120.000 đồng (ba triệu một trăm hai mươi nghìn đồng)

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia, số Imei: 355476/05/974773917, là phương tiện dùng vào việc phạm tội.

Theo quyết định chuyển giao vật chứng số 62/QĐ-CGVC ngày 26/5/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Rạch Giá.

* Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 199 BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về án ph lệ ph Tòa án.

Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án ph hình sự sơ thẩm.

* Quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 14/7/2017).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 159/2017/HS-ST ngày 14/07/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:159/2017/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về