Bản án 158/2020/HS-ST ngày 30/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 158/2020/HS-ST NGÀY 30/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 30 tháng 9 năm 2020, tại Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 159/2020/TLST- HS ngày 09 tháng 9 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 187/2020/QĐXXST-HS, ngày 16/9/2020 đối với bị cáo:

Lê Hồng V, sinh năm: 1978 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: (Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 8C Đường C, Phường M, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ : Số 1/7 Đường C, Phường M, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh); nghề nghiệp: Làm công; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Công O và bà Đỗ Thị Kim U; có vợ tên Nguyễn Thị Thanh A (sinh năm: 1978) và có 01 người con (sinh năm 2010); tiền án: Không; tiền sự: Tại Quyết định số 321/QĐ-UBND ngày 04/11/2019, Ủy ban nhân dân Phường 15, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn với thời hạn 03 tháng, kể từ ngày 04/11/2019 đến ngày 05/02/2020 về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; đến ngày 05/02/2020 chấp hành xong quyết định; nhân thân: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 371/2011/HSST ngày 29/12/2011, Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 (một) năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc”, đến ngày 24/9/2012 chấp hành xong toàn bộ bản án; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2020.

(Có mặt) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Trần Khánh L, sinh năm: 1984; nơi cư trú: Khu PL, thị trấn LT, huyện TL, tỉnh ĐN. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 21 giờ 30 phút, ngày 14/6/2020, tổ tuần tra Công an Phường 15, Quận 8 tuần tra đến trước số 3E Đường C, Phường M, Quận B phát hiện Lê Hồng V điều khiển xe gắn máy biển số 60Y4-5300 có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra, tổ tuần tra phát hiện thu giữ trên baga xe gắn máy biển số 60Y4-5300 có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu. Ngoài ra, tổ tuần tra còn thu giữ của V 01 điện thoại di động, 01 xe gắn máy biển số 60Y4-5300. Sau đó, tổ tuần tra tiến hành đưa toàn bộ vật chứng và dẫn giải V về trụ sở Công an Phường 15, Quận 8 để lập biên bản phạm tội quả tang.

Theo Kết luận giám định số 995/KLGĐ-H ngày 22/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 01 gói niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Lê Hồng V và hình dấu Công an Phường 15, Quận 8 bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu. Qua giám định có khối lượng 0,2303 gam (Không phẩy hai ba không ba gam) là ma túy thể rắn, loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Hồng V khai nhận: Do nghiện ma túy nên V thường mua ma túy về sử dụng. Vào khoảng 21 giờ, ngày 15/6/2020, V từ nhà tại số 1/7 Đường C, Phường M, Quận B điều khiển xe gắn máy biển số 60Y4-5300 đến chân cầu Mỹ Thuận, Phường 16, Quận 8 để mua ma túy về sử dụng. Khi đến nơi, V gọi điện vào số 0908660619 gặp 01 người đàn ông tên Bảo (không rõ lai lịch) hỏi mua ma túy đá với giá 250.000 đồng, Bảo đồng ý và mang 01 gói nylon chứa ma túy “hàng đá” đến giao cho V tại chân cầu Mỹ Thuận. Sau khi mua được ma túy, V để gói ma túy trên baga xe gắn máy, trên đường mang về sử dụng thì V bị bắt quả tang như trên.

Vật chứng thu giữ trong vụ án:

- 01 gói niêm phong bên ngoài ghi ký hiệu 995/20, bên ngoài có chữ ký ghi tên Lê Hồng V, Nguyễn Ngọc Tiền – Cán bộ điều tra, hình dấu Công an Phường 15, Quận 8 và chữ ký ghi tên giám định viên Lê Thị Hằng.

- 01 điện thoại di động hiệu Sony màu đen, gắn sim số: 0939716906 là điện thoại của V dùng để liên lạc cá nhân và liên hệ mua ma túy.

- 01 xe gắn máy biển số 60Y4-5300:

+ Qua giám định: Số khung bị mài mất, không xác định được số nguyên thủy; số máy bị băm mất số, không xác định được số nguyên thủy;

+ Qua xác minh do ông Trần Khánh L (sinh năm: 1984; nơi cư trú: Khu PL, thị trấn LT, huyện LT, tỉnh ĐN) đứng tên chủ sở hữu. Ông L khai mua chiếc xe tại một cửa hàng mua bán xe (không nhớ rõ tên và địa chỉ) trên Quốc Lộ 51, thị trấn LT, huyệnTL, tỉnh ĐN, với giá 26.500.000 đồng. Sau đó, ông L làm thủ tục đăng ký đứng tên chủ sở hữu đối với chiếc xe. Đến 12/2013 ông L bán chiếc xe cho một người thanh niên không rõ lai lịch với giá 19.500.000 đồng, không có làm hợp đồng mua bán. Từ khi bán chiếc xe, ông L không còn liên quan đến chiếc xe trên.

Lê Hồng V khai: V mượn chiếc xe gắn máy biển số 60Y4-5300 của 01 người em quen biết ngoài xã hội tên Khánh (không rõ lai lịch) và nói đi công việc và Khánh không biết V dùng xe để đi mua ma túy.

Công an Quận 8 đã tiến hành đăng báo tìm chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe trên, nhưng chưa có ai thừa nhận.

Đối với người đàn ông tên Bảo đã bán ma túy cho V, qua điều tra chưa xác định được lai lịch, địa chỉ; nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 không đủ cơ sở xử lý.

Đối với người thanh niên tên Khánh đã cho V mượn chiếc xe, do không xác định được lai lịch; nên không có căn cứ để xử lý.

Bản cáo trạng số 160/CT-VKS ngày 08/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Lê Hồng V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xử phạt bị cáo Lê Hồng V mức án từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm 06 tháng tù.

- Miễn cho bị cáo phần hình phạt bổ sung (do bị cáo phạm tội không nhằm mục đích thu lợi bất chính).

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bô luật tố tụng hình sự;

+ Tịch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong chứa ma túy;

+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động thu giữ của bị cáo vì dùng vào việc phạm tội.

+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc xe gắn máy bị mài mất số khung và bị bâm mất số máy (thu giữ của bị cáo);

+ Tiếp tục tạm giữ và đăng thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 01 năm để truy tìm và trả lại cho chỉ sở hữu hợp pháp đối với 01 biển số xe gắn máy 60Y4-5300, nếu quá hạn mà không có người thừa nhận hợp pháp thì tịch thu tiêu hủy.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của: Cơ quan điều tra Công an Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, không có khiếu nại gì về hành vi và quyết định của người tiến hành tố tụng, của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, của Cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Lê Hồng V đã khai nhận toàn bộ hành vi cất giữ, cất giấu trái phép chất ma túy để sử dụng thì bị tổ tuần tra Công an Phường 15, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng vào lúc 21 giờ 30 phút, ngày 14/6/2020, tại trước số 3E Đường C, Phường M, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Chất ma túy thu giữ của bị cáo Lê Hồng V qua giám định là ma túy thể rắn, có khối lượng là 0,2303 gam (Không phẩy hai ba không ba gam), loại Methamphetamine.

Do đó, đã có đủ cơ sở để kết luận: Bị cáo Lê Hồng V đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Về nhân thân của bị cáo: Tính đến thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội thì bị cáo vẫn chưa được xóa tiền sự về hành vi „„Sử dung trái phép chất ma túy‟‟ (do bản thân bị cáo là người nghiện ma túy). Đồng thời, bị cáo đã từng bị Tòa án xét xử kết tội về tội „„Tổ chức đánh bạc‟‟; nhưng bị cáo vẫn không chịu sửa chữa lỗi lầm, không chịu tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu thành công dân sống có ích cho xã hội; mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, qua đó thể hiện thái độ xem thường pháp luật của bị cáo. Vì vậy, Hội đồng xét xử phải lưu ý khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về lỗi lầm đã gây ra; để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần về hình phạt theo quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[5] Bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh đối với bị cáo là có cơ sở pháp luật, đúng người, đúng tội; mức án mà Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ , cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nhưng xét thấy bị cáo phạm tội không nhằm mục đích thu lợi bất chính, mà chỉ để sử dụng cho bản thân và có hoàn cảnh gia đình khó khăn, khó thi hành; nên Hội đồng xét xử không phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng:

- 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số 995/20, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Lê Hồng V, Nguyễn Ngọc Tiền, hình dấu Công an Phường 15, Quận 8 và chữ ký giám định viên Lê Thị Hằng; qua giám định bên trong chứa chất ma túy độc hại, cấm tàng trữ, cấm lưu hành; nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu SONY, màu đen, gắn sim số 0939716906, số IMEI: Không có: Đây là tài sản của bị cáo và có liên quan đến vụ án, nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- 01 (một) chiếc xe gắn máy (Số khung: Bị mài mất số, không xác định được số nguyên thủy; số máy: Bị băm mất số, không xác định được số nguyên thủy): Đây là phương tiện cấm lưu hành, nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- 01 (một) biển số xe gắn máy 60Y4-5300: Hiện chưa xác định được chủ s hữu hợp pháp, nên cần tiếp tục tạm giữ và đăng thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 01 năm để truy tìm và trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp, nếu quá hạn mà không có người thừa nhận hợp pháp thì tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

[9] Đối với người đàn ông tên Bảo (đã bán ma túy cho V) và người thanh niên tên Khánh (đã cho V mượn chiếc xe); qua điều tra chưa xác định được lai lịch, địa chỉ; nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 không xử lý.

Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Bị cáo Lê Hồng V 02 (Hai) năm tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính kể từ ngày 14/6/2020.

- Về hình phạt bổ sung: Không phạt bổ sung đối với bị cáo Lê Hồng V.

- Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

+ Tịch thu và tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong ghi vụ số 995/20, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Lê Hồng V, Nguyễn Ngọc Tiền, hình dấu Công an Phường 15, Quận 8 và chữ ký giám định viên Lê Thị Hằng.

+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu SONY, màu đen, gắn sim số 0939716906, số IMEI: Không có.

+ Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 (một) chiếc xe gắn máy (Số khung: Bị mài mất số, không xác định được số nguyên thủy; số máy: Bị băm mất số, không xác định được số nguyên thủy).

+ Tiếp tục tạm giữ và đăng thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 01 (một) năm để truy tìm và trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp đối với 01 (một) biển số xe gắn máy 60Y4-5300, nếu quá hạn mà không có người thừa nhận hợp pháp thì tịch thu tiêu hủy.

(Vật chứng theo Biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 25/8/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh).

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Lê Hồng V phải chịu số tiền là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

- Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 158/2020/HS-ST ngày 30/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:158/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về